Thursday, July 16, 2015

MẠC TRIỀU NGÀN NĂM CÔNG TỘI

KIẾN HÀO
-----------------------------------------------------------------------------------------

Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ

Trấn Hải Dương vốn là đất phát tích của nhà Mạc. Còn Thanh Hoa là đất thang mộc của Lê triều. Thời kỳ Nam - Bắc phân tranh ( 1533 – 1592 ), từ Ninh Bình trở ra thuộc họ Mạc, từ Thanh Hóa trở vào thuộc Lê – Trịnh. Cuộc nội chiến kéo dài đã tiêu hao biết bao sinh mạng, của cải khiến nền kinh tế kiệt quệ, vườn ruộng tiêu điều, đời sống nhân dân hai miền hết sức cơ cực. Dù triều Mạc đã lui vào dĩ vãng, chôn vùi dưới bao lớp sóng phế hưng, nhưng có lẽ nỗi niềm của con cháu vẫn còn vương vấn bao thế hệ. Hai cuộc hội thảo về nhà Mạc tại Hải Phòng năm 1994 và tại Hà Nội nhân dịp kỷ  niệm ngàn năm Thăng Long 2010 có nhiều ý kiến mới mẻ , khác hẳn quan điểm của sử gia thời Lê, Nguyễn hay ngay cả giới sử học hai miền Nam Bắc hậu bán thế kỷ 20. Thường thường nếu muốn tìm sự đồng thuận để thay đổi một quan điểm chung đã định hình là hết sức khó ; trừ khi những lý lẽ phản biện phải rất thuyết phục, khách quan, khoa học và hợp lý; còn nếu chỉ lượm lặt, cóp nhặt từ trong sử cũ những sự kiện riêng lẽ không điển hình, gán ghép một cách khiêm cưỡng theo ý kiến chủ quan thì khó mà nhận được sự đồng tình của mọi người. Huống chi việc viết lại giáo trình lịch sử hay sách giáo khoa cho hàng triệu học sinh các thế hệ con cháu đời sau học hỏi là một việc hết sức hệ trọng ; không nên vì phục vụ cho quan điểm chính trị ngoại giao đương thời hoặc cục bộ địa phương mà uốn cong ngòi bút, làm vẫn đục cả bức tranh lịch sử dân tộc.

ĐẶT TÊN ĐƯỜNG ĐỂ CHẤM DỨT TRANH CÃI ?

Năm 2014, Hà Nội đã từng đề xuất đặt tên đường phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông nhưng đại biểu Quốc hội - nhà sử học Dương Trung Quốc đã gửi thư tới lãnh đạo Hà Nội phản đối đề xuất này. Theo ông Dương Trung Quốc, việc đặt tên đường phố Hà Nội mang tên hai nhân vật này là “chưa thích hợp”. Sau đó, Ủy Ban nhân dân TP Hà Nội đã rút tờ trình để củng cố tư liệu. Năm 2015, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội tiếp tục tham mưu thành phố đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông lần hai. Lần này, nhà sử học Dương Trung Quốc chỉ đồng tình đặt tên đường Mạc Thái Tông. Quan điểm của nhà sử học Dương Trung Quốc cũng là quan điểm của nhiều học giả, nhà khoa học. Theo đó, việc chỉ đặt tên đường Mạc Thái Tông là dấu mốc ghi nhận tính chính thống và những đóng góp của vương triều Mạc với đất nước. Còn với đề xuất đặt tên đường Mạc Thái Tổ, do tư liệu về ông vẫn còn nhiều “khoảng mờ” lịch sử cùng với bối cảnh chính trị, xã hội hiện tại chưa thích hợp nên tạm gác việc đặt tên phố Mạc Thải Tổ lại.

Ngày 6.7.2015, HĐND Hà Nội đã nhất trí thông qua nghị quyết về việc đặt tên 19 tuyến đường phố mới, trong đó có hai tuyến đường mang tên hai vị vua đầu triều Mạc. Theo lời một vị lãnh đạo, “trước khi trình phương án đặt tên đường, phố lần này, hội đồng tư vấn “đặt tên, đổi tên đường phố” đã họp nhiều lần. Sau khi thống nhất, hội đồng tư vấn cũng đã lấy ý kiến của Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch”. Báo chí trong nước cũng lên tiếng ủng hộ bằng việc phỏng vấn, dẫn lời các nhà nghiên cứu Sử trong các Hội, Viện. Tuy nhiên, ngoài những ý kiến đa số là đồng tình, không phải không có những ý kiến ngược lại, thí dụ bài viết của tác giả Trần Thị Băng Thanh trên báo Tiền Phong, số ra ngày 14.6.2015. Lối lập luận khúc chiết, dẫn chứng hợp lý của tác giả bài viết khiến người đọc sáng ra nhiều mối nghi ngờ trước đó. Căn cứ vào lối hành văn, có thể đoán người viết là một nhà nghiên cứu Sử có kiến thức sâu rộng về đề tài này, có thể đã ẩn  danh vì nhiều lý do.
THẦN PHỤC GIẢ VỜ, ĐỘC LẬP THẬT SỰ ?

Một số các nhà nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam (mà hầu hết là ở Hà Nội) hiện nay như Ngô Đăng Lợi, Lê Văn Lan, Nguyễn Danh Phiệt, Phan Huy Lê, Dương Trung Quốc, Phan Văn Các, Hoàng Lê, Phan Đăng Nhật …đều thống nhất quan điểm: Nhà Mạc thực sự không đầu hàng, Mạc Đăng Dung không hề mắc tội phản quốc. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng thậm chí còn nói rõ hơn : ““Hành động “đầu hàng” của nhà Mạc do Minh sử chép là một sự phóng đại để khoe khoang. Hành động của vua Mạc chẳng qua là một hành động “tượng trưng”, một sự “nhún mình” của một nước nhỏ đối với nước lớn trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa. Việc ông già Mạc Đăng Dung đã gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả nước mà bị mang tiếng mãi e chừng không ổn. Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao thường xuyên của nước Việt nhỏ nước Hoa lớn: “thuần phục giả vờ, độc lập thực sự”. Cùng quan điểm với cố GS Trần Quốc Vượng, nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tường cũng nhận xét: “Với hành động chịu nhẫn nhục của mình, Mạc Đăng Dung không chỉ tạo cho các tướng Cừu Loan, Mao Bá Ôn (tướng nhà Minh) cái cớ để rút quân mà còn làm nguội đi cái đầu bốc lửa của vị hoàng đế Trung Hoa lúc nào cũng sẵn sàng cử binh sát phạt các nước chư hầu”.

            Có thật Mạc Đăng Dung chỉ “hàng phục giả vờ”, “tượng trưng”, “nhún mình”; thực sự là không đầu hàng phương Bắc hay không ? Phải chăng Minh sử đã phóng đại để khoe khoang ? 

            Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục  ghi chép về việc này như sau : “ … đến kỳ đã định, Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và bè đảng là bọn Vũ Như Quế hơn 40 người do đường Nam Quan đi sang; ai nấy buộc dây vào cổ, đi chân không, gieo mình vào mạc phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai và nhân dân do mình cai quản. (Việt sử thông giám cương mục, Chính biên XXVII, Bản dịch của Viện Sử học in năm 1959, tr. 1337). "Đăng Dung lại xin hàng, dâng đất các động Ti Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở An Quảng để lệ thuộc vào Khâm Châu. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã làm từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao" (Sách đã dẫn tr. 1338). "Năm Mạc Minh Đức thứ 2 (1528), Sử cũ chép Mạc Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận, vua Minh thu nhận. Từ đó Nam Bắc lại đi lại thông hiếu".(Sách đã dẫn tr. 1338).  "Nhà Minh đổi nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ, đổi đặt toàn quốc làm mười ba tuyên phủ ty, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh" (Sách đã dẫn tr. 1340). "Nhà Minh bèn đổi nước An Nam làm Đô thống sứ ti, cho Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm trật vào bậc tòng nhị (còn kém chánh nhị phẩm), ban cho ấn chương khác và cho đời đời được cha truyền con nối. Còn các nghi thức mà Đăng Dung tiếm dùng đều bắt tước bỏ hoặc cải chính lại. Trong mười ba lộ như Hải Dương, Sơn Nam vân vân đều đặt tuyên phủ ty, mỗi ty đặt một tuyên phủ đồng tri, một tuyên phủ phó sự và một tuyên phủ thiêm sự, dưới quyền cai quản của đô thống sứ. Tất cả các ty trên đây đều cho lệ thuộc vào Quảng Tây phiên ty (Sách đã dẫn tr. 1341).Cũng theo Cương mục thì Mao Bá Ôn (nhà Minh) còn đem gấp tờ tấu lên vua Minh đề xuất việc hàng năm bắt nhà Mạc "phải lên Nam Quan lĩnh lịch được ban", lễ cống năm trước còn thiếu, kiểm tra theo lệ ngạch, "bắt năm sau phải nộp bổ sung cho đầy đủ" (Sách đã dẫn tr. 1340).
             Đại Việt Sử ký Toàn thư , tờ 3a,3b quyển XVI chép : “ …Mùa Đông, tháng 11 (1540), Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai bọn Văn Minh, Nguyễn văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh”.
            Xem như trên, sử Việt (chứ không phải Minh sử) thời Lê, Nguyễn đã ghi chép khá rõ : Đại Việt bị xóa tên, trở thành một đô thống sứ ty lệ thuộc Quảng Tây phiên ty, Mạc Đăng Dung được phong Đô thống sứ, hàng năm nộp cống, nhận lịch … Một đất nước trãi hàng ngàn năm tồn tại do công đóng góp bao xương máu của tiền nhân, nay phút chốc bị xóa bỏ. Kẻ đứng đầu đất nước không còn là vua nữa mà chỉ là một viên quan cấp địa phương của nhà Minh. Cương giới Đại Việt bị chia nhỏ ra làm mười ba tuyên phủ ty, lệ thuộc vào Quảng tây phiên ty. Đất nước bị kẻ thù chia để trị như vậy mà còn ngụy biện là đầu hàng giả vờ (!) thì không biết thế nào mới là đầu hàng thực sự . Nếu Mạc triều là bên thắng trong cuộc chiến Lê-Mạc sau đó thì không biết tương lai của “An Nam đô thống sứ ty” sẽ còn lừng lẫy tới đâu. “ Dân ta phải biết sử ta”, lẽ nào các vị là cây đa , cây đề trong giới sử học Việt Nam lại không biết mà phải dựa vào Minh sử ?
            Mạc phủ, nơi bọn tướng nhà Minh tiếp nhận sự đầu hàng của Mạc Đăng Dung và hơn 40 thuộc hạ, về sau được gọi là “Thành Thụ hàng”. Hơn hai trăm năm sau, Ngô Thì Nhậm đi sứ qua đây, nhìn cảnh cũ cảm khái làm bài thơ Thụ hàng thành :
 Thụ Hàng thành
Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng Tường,
Cố Thụ Hàng thành thị cố cương.
Sơn tự Lạng Sơn, khê giảo thiểu,
Thạch xưng Hạ Thạch lý thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi huyên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết mãn đường.
Đô thống Hàng Thành thành thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi Dương.

(Đường đi qua phủ mạc vào Bằng Tường, Thành Thụ Hàng xưa là cương giới cũ của nước ta. Núi non giống như ở Lạng Sơn nhưng suối khe ít hơn. Đá thì gọi là Hạ thạch, riêng đường càng dài. Trục guồng nước chuyển, tiếng nước đổ như sấm huyên náo bên bờ, Trên đài pháo hiệu tàn bay như tuyết khắp nhà. Đô thống, Thành Hàng là cái trò gì vậy, khiến người ta nghìn năm còn chửi mắng kẻ Nghi Dương (Mạc Đăng Dung người Nghi Dương).
Nguyễn Sĩ Lâm dịch thành thơ như sau:
Lối qua Mạc phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa, dấu cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn, dòng suối ít,
Mốc nêu Hạ Thạch, dặm đường trường.
Tuyết bay tàn pháo đồn canh khắp,
Sấm chuyển guồng xe, bến nước vang.
Đô thống xin hàng, trò khốn nạn,
Nghìn năm bán nước tiếng Nghi Dương
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (Tập 3), Nxb Khoa học xã hội, 2005.
MẠC ĐĂNG DUNG CÓ DÂNG ĐẤT CHO NHÀ MINH KHÔNG ?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tường dẫn lại lời của cố giáo sư Trần Quốc Vượng : “Còn về việc “dâng đất” nhà Minh, chính sử nhà Minh có viết: “Họ Mạc nộp toàn đất khống (có địa danh mà không có thực) hoặc là đất nhà Minh từ trước rồi, mà tương kế tựu kế đem nộp. Các quan nhà Minh không hay cứ yên trí đem dâng đất về kinh sư. Khi đi kiểm tra để thu hồi mới hay sự thật là họ Mạc nộp vờ”. Có thực là Mạc Đăng Dung chỉ nộp đất “khống” để lừa vua quan nhà Minh không ?

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thời Lê thì Đăng Dung cắt dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Nhưng theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (chính biên, quyền 27) thì có thể sách trên chép nhầm vì theo Khâm Châu chí của nhà Minh và Quảng Yên sách của ta thì An Lương vẫn thuộc châu Vạn Ninh nước ta. Theo Việt Nam sử lược, năm động bị dâng là : Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sung, Liễu Cát và La Phù, có lẽ chép thep Cương mục. (Cương mục dẫn Quảng Yên sách cho rằng động An Lương là phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh nước ta, sau đổi thành phủ Hải Ninh).

Theo Đại Việt Thông sử thì trong tờ hàng biểu, Mạc Đăng Dung tâu rõ :“ …hai đô Như Tích, Chiêm Lãng và bốn động Tư Phiêu, La Phù, Cổ Sâm, Liễu Cát là đất cũ của Khâm Châu tỉnh Quảng Đông. Nếu quả như vậy thì những đất ấy do triều trước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào Khâm Châu…”.

Trong bản tổng kết Hội thảo khoa học về vương triều Mạc tại Kiến Thụy- Hải Phòng ( 18.7.1994), Phan Huy Lê đã nêu ra một ý mới: “ Đánh giá xung quanh vấn đề này có những ý kiến khác nhau, nhất là chính sách đối ngoại của nhà Mạc đối với nhà Minh. Nhưng cuối cùng đã đi đến thống nhất : phải đặt nhà Mạc trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nhà Mạc phải đối phó với nhiều thế lực phong kiến. Đòi hỏi phải có nhiều sách lược mềm mỏng. Sách lược đó là tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền của mình. Việc dâng đất nhà Minh: Nhà Mạc cắt bốn động thuộc hai châu cho nhà Minh điều đó là có thật. Vì đất đó thực chất là của nhà Minh. Về phương diện nào đó nhà Minh đòi hỏi, nhà Mạc phải trả lại. Và cũng về mặt nào đó, nhà Mạc phải trả lại cho nhà Minh. Tuy nhiên việc làm này không thể chấp nhận được. Vì đó là nguyên tắc trong mối quan hệ bang giao. Nên dù sao trong chính sách đối với nhà Minh, nhà Mạc còn một số hạn chế ”.

Lối nói đẩy đưa nước đôi của Phan Huy Lê khiến người đọc có thể hiểu nhầm việc cắt đất dâng nhà Minh của Mạc Đăng Dung không phải là phản quốc, vì đất đó là của nhà Minh nay Đăng Dung trả lại cho nhà Minh. Sự thực ra sao ? Vùng đất biên viễn ấy , nguyên khi xưa thời Lê sơ, động trưởng các động tự nguyện xin phụ thuộc vào nước ta . Nhà Lê nhập các đất ấy vào châu Vạn Ninh. Như vậy, đất ấy đã nội thuộc nước ta đến thời Mạc gần 100 năm rồi, nhất là bằng con đường hòa nhập chứ không phải bằng bạo lực xâm lược, không hiểu Phan Huy Lê dựa vào đâu để gọi là của nhà Minh ? Nếu đất ấy là của nhà Minh thì việc vua Quang Trung đòi nhà Thanh trả lại đất Lưỡng Quảng là sai sao ? Và miền Nam đúng là đất của Campuchia như hoàng thân Sihanouk đòi chăng ? Việc Đăng Dung đem dâng trả đất đã nội thuộc vào nước ta cho nhà Minh chính là đã chính thức công nhận chủ quyền của họ. Trong ngoại giao đó là một việc thất thố, tổn hại đến lợi ích quốc gia.

              Cũng có tác giả như Phạm Văn Sơn trong Việt sử tân biên so sánh việc nộp đất của Đăng Dung với việc cắt nhượng tô giới cho các nước phương Tây của nhà Thanh mà cho rằng đó là hành động khôn khéo để bãi một cuộc binh đao tai hại, “gây chết chóc muôn vàn sinh mạng”. Ở đây có một sự lầm lẫn, hoặc tác giả Việt Sử tân biên cố tình đánh đồng hai khái niệm khác nhau, bởi “nộp đất” nghĩa là trao trọn chủ quyền đất đai vĩnh viễn cho giặc, còn “cắt nhượng tô giới” là một thỏa hiệp có hạn chế về không gian và thời gian, chủ yếu khai thác về mặt kinh tế, thương mại; về một mặt nào đó bên cắt nhượng vẫn còn chủ quyền trên đất đó. 

Sự kiện Đăng Dung cắt đất dâng cho giặc là một việc làm có thật, không phải nộp “vờ”, dựa vào Minh sử để biện minh cho hành động bán nước của nhà Mạc là đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Hơn nữa, không dễ gì gạt được những kẻ mà lòng “tham đất” đã ăn sâu vào huyết quản, truyền từ đời này sang đời kia. Lê Thánh Tôn, một vị vua anh minh của Đại Việt (1460-1497) đã từng có câu mệnh lệnh nổi tiếng : “ Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ ?...kẻ nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”.

            Sự thật, gọi việc dâng đất cho giặc của Mạc Đăng Dung là “tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền” là một lối nói xảo ngôn, ngụy ngữ, là lập luận hết sức nguy hiểm của những kẻ có tinh thần chủ bại, chưa đánh đã hàng , khiếp hãi nước lớn, cam tâm làm nô lệ cho giặc, tay sai cho ngoại bang ; đi ngược lại truyền thống bốn ngàn năm giữ nước và dựng nước của ông cha. Sách lược ấy, tư tưởng ấy chỉ khuyến khích lớp hậu sinh trở nên hèn yếu , nhu nhược; chấp nhận cho kẻ thù lấn cướp mà không dám lên án và bảo vệ chủ quyền đất nước. Đó chính là lời ngụy biện của Trần Ích Tắc, kẻ đã đầu hàng và nhận tước An nam quốc vương của giặc Nguyên: “ để tránh cảnh can qua, núi xương sông máu cho dân tộc ”. Đó cũng là chủ trương của Lê Chiêu Thống khi rước voi về dày mả tổ. Nếu tư tưởng chủ bại, hèn nhát này quán xuyến suốt chiều dài lịch sử thì làm sao dân Việt ta có được những vị anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ hay gương trung trinh lẫm liệt của Nguyễn Biểu, Trần Bình Trọng…

SỰ THẬT ĐẰNG SAU VIỆC LẬT LẠI LỊCH SỬ :

Hành động đầu hàng nhục nhã của Mạc Đăng Dung là một vết nhơ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử xếp Mạc Đăng Dung vào hàng nghịch thần, hoặc Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí xem nhà Mạc như một dị biệt. Phan Bội Châu trong Việt Nam Quốc sử khảo cũng lên án Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lấy đất đai, nhân dân dâng lên nhà Minh là tội đáng chém. Quyển “ Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng liệt nhà Mạc vào hạng triều đại tiếm nghịch, thí vua tiếm ngôi, không được kể là chính thống , nên gọi là ngụy triều, chức quan gọi là ngụy quan hoặc ngụy chức.

Nặng lời phê phán nhất là sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử lược : “ …Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ. Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục ? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng lên bởi sự gian ác hèn hạ như thế, thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê mới trung hưng lên được”.

Sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Ủy ban Khoa học-Xã hội Hà Nội xuất bản năm 1971, tái bản năm 1976 đã ghi như sau : “…Họ Mạc còn dựa vào thế lực của ngoại bang, đầu hàng , thỏa hiệp với nhà Minh để hòng đổi lấy sự “ ủng hộ” của nước ngoài. Độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và thanh danh của đất nước, đó là những điều thiêng liêng đối với người Việt Nam từ ngàn xưa, nay bị xúc phạm vì sự bất lực và hèn nhát của tập đoàn thống trị họ Mạc.”

Như vậy, cho tới hậu bán thế kỷ 20, giới Sử gia hai miền Nam Bắc dù khác quan điểm chính trị nhưng vẫn cùng chung một nhận xét đánh giá về Mạc Đăng Dung, xác định đó là nhân vật lịch sử đã nộp nước đầu hàng vì khiếp sợ thế lực phương Bắc, kẻ đã đem dâng đất đai cho giặc để củng cố ngai vàng, kẻ đã cố chịu nhục để giữ cho được ngai vàng họ Mạc bằng bất cứ giá nào chứ không phải hy sinh chịu nhục vì nước vì dân gì cả. Sách giáo khoa lịch sử hai miền Nam Bắc đều thống nhất Mạc Đăng Dung là kẻ giết vua cướp ngôi gây ra họa nội chiến nồi da xáo thịt làm suy yếu sức mạnh Đại Việt, tội nặng nhất là cắt đất dâng giặc đến nay vẫn chưa đòi lại được (trong lúc ấy các chúa Nguyễn đã mở cõi đến Phú Yên). Nếu gọi sử là tấm gương sáng soi rọi hành vi tiền nhân, người viết sử phải giữ lòng trung trinh khách quan để hậu thế nhìn vào đó mà noi theo hoặc xa lánh thì những ghi chép về trường hợp Mạc Đăng Dung nói riêng và dòng họ Mạc nói chung, toàn bộ các nhà viết sử Đại Việt -Việt Nam hơn 500 năm qua đều không có dị biệt. 

Tuy nhiên đến những năm cuối của thế kỷ 20 (chính xác là sau mật nghị Thành Đô 1990), bắt đầu xuất hiện những nổ lực nhằm “minh oan” cho Mạc Đăng Dung và chế độ nhà Mạc của các sử gia Việt Nam và Hội Sử học Hải Phòng , qua việc liên kết tổ chức các cuộc “hội thảo khoa học về vương triều Mạc ”. Nếu việc “trăn trở” của các thế hệ con cháu nhà Mạc còn có thể hiểu được (cùng với việc trùng tu những di tích nhà Mạc thời gian gần đây) thì quan điểm của các quan Thái sử thời nay là hết sức nguy hiểm vì nó cổ võ cho  tư tưởng thần phục nước lớn, chấp nhận những nhượng bộ thiệt hại về đất đai, chủ quyền dưới chiêu bài “ giữ vững ổn định, tránh chiến tranh”, thực chất là hy sinh quyền lợi dân tộc để bảo toàn lợi ích phe đảng.

Ngày nay, công cuộc bảo vệ chủ quyền quê hương biển đảo Việt Nam đang bị uy hiếp trầm trọng vì tham vọng bá quyền của Trung Quốc, muốn nuốt trọn Biển Đông trong đường lưỡi bò 9 khúc, hàng ngày trên báo chí đầy dẫy những tin “tức” về những vụ tàu cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm, ngư cụ bị trấn lột, thiết bị bị đập phá;  đồng thời Trung Quốc quân sự hóa các đảo chìm trong quần đảo Trường Sa chuẩn bị hướng tới việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên vùng trời Biển Đông. Khác với phản ứng quyết liệt của Philippine , Việt Nam giữ thái độ hòa hoãn, thậm chí “hợp tác” với nước đàn anh XHCN trong việc giải quyết tranh chấp lãnh hải song phương và đa phương. Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đều bị cấm đoán nghiêm ngặt.

            Đến đây thì có lẽ bạn đọc đã biết tại sao Hà Nội lại đặt tên đường cho Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh rồi !
  

Friday, July 10, 2015

HÀNG THẦN LƠ LÁO

KIẾN HÀO


Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
( Truyện Kiều – Nguyễn Du )

 Nguyễn Hữu Chỉnh – kẻ sĩ Bắc Hà :

Hoàng Lê  nhất thống chí chép : “ Chỉnh vốn người làng Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An. Cha Chỉnh nhờ nghề buôn bán trở nên giàu có, Chỉnh phong tư đẹp đẽ, trí tuệ hơn người, năm 16 tuổi đỗ Hương cống. Giỏi làm thơ quốc âm ( chữ Nôm) . Tính Chỉnh lại hào hiệp giao du khắp thiên hạ. Trong nhà lúc nào cũng có vài chục người khách, mười mấy ca nhi và vũ nữ. Chỉnh tự tay soạn ra bài hát, phổ vào đàn sáo , bắt ca nhi vũ nữ ca múa để mua vui. Vì thế , Chỉnh được xem là tay phong lưu bậc nhất ở đất Trường An hồi đó”.

Buổi đầu binh nghiệp, Chỉnh làm gia thần dưới trướng Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc , sau đó làm Hữu tham quân cho Trấn thủ Nghệ An Huy Quận công Hoàng Tố Lý. Khi loạn kiêu binh nổi lên (1782) thì Chỉnh đang là một viên tì tướng trấn Nghệ An. Được tin Quận Huy bị giết, Đặng tuyên phi và vương tử Cán bị bức tử, Chỉnh hốt hoảng bỏ Nghệ An vượt biển vào Quy Nhơn theo Nguyễn Nhạc, nhờ lập công đầu trong nhiều trận đánh nên được Nguyễn Nhạc tin dùng.

Năn 1786, quân Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân, nhân đấy Chỉnh tham mưu cho Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dưới danh nghĩa Phù Lê diệt Trịnh. Các tướng dưới trướng của Nguyễn Huệ như Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân…vẫn giữ sự đố kỵ đối với Chỉnh, xem việc Chỉnh dẫn đường cho quân Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh giống như Ngũ Tử Tư rước quân Ngô về đánh Sở để trả thù cho cha anh; còn dân chúng Bắc Hà vẫn xem Chỉnh là kẻ bội phản, rước giặc vào nhà khiến sự nghiệp hai trăm năm nhà Chúa ra tro.

Kịp khi quân Tây Sơn rút về Nam, Chỉnh cũng lật đật rút theo, đến Nghệ An thì theo kịp. Chỉnh được Nguyễn Huệ giao trấn thủ xứ ấy để làm rào giậu. Vua quan triều Lê đã sẵn hậm hực vì mất đất Nghệ An vào tay Tây Sơn, lại thấy thanh thế Chỉnh ngày càng to nên lấy làm ghét lắm nhưng không làm gì được. Sự nghiệp của Chỉnh lên đến đỉnh điểm khi được vua Chiêu Thống vời về kinh diệt bọn phò chúa như Dương Trọng Tế, Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, đuổi chúa Án Đô vương Trịnh Bồng chạy dài. Cậy có quân công, Chỉnh trở thành kiêu lộng quá mức, lại có ý làm phản chống lại Tây Sơn, rốt cuộc bị chết dưới tay tướng Tây Sơn là Vũ văn Nhậm.

Thất bại của Chỉnh một phần do không được sự ủng hộ của dân chúng Bắc Hà, vốn vẫn xem Chỉnh như một kẻ phản bội cõng rắn cắn gà nhà; khi về hàng Tây Sơn lại bị Nguyễn Huệ và các tướng nghi ngờ, xem như một hàng tướng gian xảo, không đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu công tâm nhận xét thì nếu Chỉnh không bỏ vào Nam theo Tây Sơn thì biết theo ai ? Hào khí Thăng Long đang đi vào giai đoạn thoái trào, chả lẽ lại theo phò cái thây ma Lê-Trịnh đang mục nát hay theo làm tỳ tướng cho bọn giặc cỏ ở các trấn như Dương Trọng Tế, Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng ? Thế đứng độc lập của Chỉnh ở Bắc Hà thành ra lại có hại hơn là có lợi. Hậu thế có người thắc mắc tại sao Chỉnh không vượt biển vào nam theo chúa Nguyễn ? Thì đó, tấm gương Đặng Trần Thường, Lê Chất cho ta thấy phe  bên kia chiến tuyến có bao giờ xem bọn hàng tướng là phe mình đâu ?  

2. Ngô Thời Nhiệm, nhà nho thọ lộc hai triều:

Ngô Thời Nhiệm (Ngô Thì Nhậm) xuất thân từ một gia đình khoa bảng trí thức, cha là Ngô Thì Sĩ làm quan trãi hai triều chúa Trịnh là Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Khi vụ án năm Canh Tý (1780) xảy ra, Thì Nhậm đang giữ chức Đốc Đồng trấn Kinh Bắc, còn cha là Thì Sĩ đang làm Đốc trấn Lạng Sơn. Theo Việt sử Thông giám Cương mục thì chính Thì Nhậm đã hợp mưu cùng Huy Bá làm tờ khải dâng lên Trịnh Sâm để tố cáo Trịnh Tông “mưu phản”, trước đó Ngô Thì Sĩ đã cố sức can ngăn mà Nhậm vẫn không nghe. Sau nghe tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm vì có công tố giác, được thăng Hữu thị lang bộ Công (Thứ trưởng bây giờ-KH). Do đó, người đương thời có câu rằng “ sát tứ phụ nhi thị lang” (giết bốn người cha để được làm Thị lang). Bốn người cha là : Thì Sĩ, thân phụ, Trịnh Tông, quân phụ, hai người bạn của bố là Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép việc này như sau: “Ngô Thì Nhậm, đốc đồng Kinh Bắc, trước kia giữ việc hàng ngày giảng nghĩa sách cho Khải, rất được Khải thân yêu kính trọng. Hà Như Sơn, một tên đầy tớ nhỏ, là học trò Thì Nhậm, hiện làm người giữ sách cho Khải. Như Sơn biết được việc này, đem nói với Nhậm, Nguyễn Huy Bá, cấp sự trung là người giảo hoạt thâm hiểm, vì tội tham tang, bị bãi chức. Bá cho con dâu vào làm thị tỳ hầu hạ Đặng Thị (Huệ), lại sai người thân tín cầu cạnh làm hầu hạ Nguyễn Khắc Tuân, nên dò biết việc này, bèn vào phủ tố  cáo với Đặng Thị. Thì Nhậm định tự mình phụ hoạ với Đặng Thị, bèn cùng Huy Bá hợp mưu cáo tố là Khải lén lút cấu kết với hai viên trấn thủ, mưu toan làm việc trái phép. Sâm giận lắm, cho triệu Đình Bảo vào phủ bảo về việc này, ý Sâm muốn phê phó giao xuống để trị tội ngay. Đình Bảo can rằng: "Khải dám làm việc to lớn này, chính do viên quan hai trấn ở Tây và Bắc chủ mưu, nay họ đều cầm quân ở ngoài nếu trị tội một cách vội vàng, e sẽ xảy ra biến cố khác. Vậy chi bằng trước hết triệu hai viên trấn thủ ấy về triều, rồi sau sẽ dần dà phát giác sự trạng để trị tội". Sâm nhận là phải, bèn hạ lệnh triệu Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây. Khi Lệ về đến nơi, Sâm yên ủi có phần hơn trước. Cách mấy hôm sau, mật bắt được bè đảng của Lệ; nhân đấy lại cho triệu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc. Khi Tuân đã về, bắt giam lại cùng với Nguyễn Lệ và Nguyễn Phương Đĩnh, rồi sai Ngô Thì Nhậm cùng với hoạn quan là Phạm Huy Thức tham dự việc tra hỏi. Gặp lúc ấy,Thì Nhậm vì cha mất, từ chức về, nên đổi sai Lê Quý Đôn tra hỏi lại, bọn Xuân Thụ, Thế và Thẩm nhận hết tội lỗi. Sâm bèn truất Khải xuống làm con út (quý tử), giam ở nội phủ. Bọn Xuân Thụ đều bị giết. Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị giam vào ngục. Phương Đĩnh vì nuôi dưỡng Trịnh Khải không thành công trạng gì, nên bị lột hết chức tước đuổi về làng. Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc chết. Trịnh Khải đã bị phế, ở ngôi nhà ba gian, ăn uống ra vào không được tự do, người ta đều lo ngại cho Khải, nhưng không người nào dám nói. Lúc ấy có viên tri châu cũ là Lê Vĩ, dâng thư biện bạch cho Khải là bị tội oan, nhưng không được Trịnh Sâm xét đến. Trước kia, NgôThì Nhậm sắp phát giác tội của Khải, đem việc ấy bàn với cha NgôThì Sĩ, Sĩ cố sức can ngăn, đến nổi phải đem cái chết để thề bồi với con, nhưng chung quy Nhậm vẫn không theo. Kịp khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Về phần Nhậm, vì có công phát giác, được thăng hữu thị lang bộ Công. Lúc ấy người ta có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi thị lang", nghĩa là giết 4 người cha để mà làm thị lang. Câu ấy là có ý khinh bỉ Thì Nhậm đó”.

Năm 1782, loạn kiêu binh nổi lên đưa Trịnh Tông trở lại ngôi chúa, nhũng kẻ tham dự vào việc tố giác chúa năm xưa đều bị kiêu binh lùng bắt và phá nhà tan tành. Ngô Thì Nhậm bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình, đường công danh kể như chấm dứt. Âu đó cũng là cái giá phải trả cho những kẻ dùng âm mưu thủ đoạn chốn quan trường, hãm hại người khác để làm bậc tiến thân. Nếu chúa Trịnh không bị Tây Sơn lật đổ thì Thì Nhậm kể như hết đường tiến thủ trong lúc suốt đời phải chịu điều tiếng giết cha của bia miệng. Điều này giải thích tại sao sau này, cùng với Phan Huy Ích,  Ngô Thời Nhiệm là một trong vài viên quan nhà Lê sốt sắng ra hợp tác với Tây Sơn sớm nhất trong lúc đa số quan lại Bắc Hà nếu không chạy theo vua Lê được đều chọn con đường tạm lánh ở ẩn. Vua Quang Trung đã thấu hiểu tình thế “nhạy cảm” của Nhiệm nên đã có lời an ủi, vỗ về cho kẻ sĩ Bắc Hà yên lòng : “ Ngày trước, ngươi vì chúa Trịnh không dung, một mình bỏ nước mà đi.Nếu ta không đến đây, ngươi làm sao được thấy bóng mặt trời ? Có lẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được”. (Hoàng Lê Nhất Thống chí)
    
Giống như thái độ đối xử với hàng tướng Hữu Chỉnh, bọn quan tướng Tây Sơn không bao giờ xem Thì Nhậm là “người mình” hay “quân ta”. Năm 1788, trước khi về nam, Nguyễn Huệ biết bọn tỳ tướng của mình sẽ phân biệt đối xử với bọn hàng thần Bắc Hà nên đã để lại lời dặn dò tâm huyết : “ Sở và Lân là nanh vuốt của ta, Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta, Tuyết là cháu của ta, còn Nhậm vừa là bề tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn học Bắc Hà, thông thạo việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt. Những việc quan trọng trong nước, đều cho tùy tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thỏa, chớ vì kẻ cũ người mới mà xa cách nhau….”.

Khi quân Thanh sang xâm lấn, Thì Nhậm khuyên Ngô Văn Sở chớ xem thường quân địch thì Sở đang hồi đắc ý nên không nghe, còn giễu cợt Thì Nhậm trước mặt bá quan : “…nếu quân giặc có sang thì phiền ông làm một bài thơ để lui chúng…”. Cũng vì xem thường, không nghe lời bàn của Nhậm nên Phan Văn Lân đã “nướng” năm ngàn quân tiên phong vào trận đánh bên bờ sông Hồng . Theo Hoàng Lê Nhất thống chí : “…lúc ấy tiết trời giá rét, Lân kéo quân qua sông thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với khí lạnh mà lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông những kẻ cóng quá không thể qua được đều bị chết đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị quân Thanh giết chết. Lân liệu chừng không thể giao chiến được nữa bèn vẫy quân chạy lui. Đám quân tan vỡ chạy trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Lân chỉ trơ một mình một ngựa mà quay về…”.  

Sau chiến thắng Kỷ Dậu (1789), Nhậm được vua Quang Trung ủy thác đảm đương mặt trận ngoại giao với nước Thanh. Đây là thời kỳ văn tài của Nhậm được phát huy hết mức. Khi vua Quang Trung mất, Nhậm bị thất sủng không được Quang Toản và đình thần Tây Sơn tin dùng, bèn lui về nhà nghiên cứu Phật học.

 Sau khi vua Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Lê hàng Tây Sơn bị đánh bằng roi tại Văn Miếu (1803). Sau trận đòn, về nhà, vài hôm sau thì Ngô Thì Nhậm chết. Về cái chết của Ngô Thì Nhậm, người đời thêu dệt thêm chuyện Đặng Trần Thường dụng hết pháp để trả tư thù, nhưng xét ra luật trời có vay có trả, phải chăng chính những oan hồn của vụ án năm Canh Tý đã vận vào nghiệp chướng của Thì Nhậm như một cách báo thù của người cõi âm ? Câu chuyện Đặng Trần Thường tẩm thuốc độc vào roi hoặc sai hình quan cố ý đánh vào chổ hiểm của Thì Nhậm chỉ là truyền thuyết, không có chứng cứ. Đánh roi cũng còn là hình phạt nhẹ so với tội “phản quốc” dưới thời phong kiến. Dù sao hình phạt ấy cũng mang tính nhân văn cao hơn so với ngay cả các hình thức xử phạt tương tự thời nay của một số chế độ vẫn tự xưng là văn minh, nhân đạo. Sử gia đời sau cứ trách hình luật triều Nguyễn tàn nhẫn hơn luật Hồng Đức nhưng xem ra cũng có ngoại lệ. Có thể vua Gia Long vẫn còn chút biệt nhãn đối với đất và người Thăng Long ngàn năm văn vật. Ai cũng biết thói đời, kẻ thừa hành xu nịnh thường hay đoán ý mà làm vui lòng quan trên. Huống chi mối hiềm khích Thì Nhậm-Trần Thường công khai trên sảnh đường ngày nào, ai ai cũng biết: Thì Nhậm đang hồi đắc ý được Tây Sơn giao cho chức quan to xứ Bắc, sỉ nhục Trần Thường trước bá quan văn võ. Thời cuộc xoay vần, nay (1803) kẻ ngồi trên ngôi cao mắng người trở thành kẻ chịu tội, còn kẻ bị mắng trở thành vị phán quan xét xử. Vậy thì bọn chấp pháp kia dù có ngu dốt cũng biết cách làm thế nào để vui lòng quan trên của chúng. Bị phạt trượng đau một, nhưng bị chịu nhục ngay cửa Khổng sân Trình, đối với một nhà nho đau gấp hai ba lần. Trong lịch sử Việt Nam , cũng có một trường hợp chết vì không chịu nổi nỗi sỉ nhục : đó là kẻ cướp ngôi nhà Lê Mạc Đăng Dung. Năm 1541, Mạc Đăng Dung dẫn bộ thuộc lên Ải Nam Quan, mặc đồ trắng, giắt roi trên lưng, tự trói mình, cúi đầu quỳ lạy trước bọn võ quan nhà Minh, nộp sổ sách đất đai xin đầu hàng, chịu phiên thuộc, nhận tước phong và nộp cống hàng năm. Trở về Dương Kinh (Hải Dương), bị ám ảnh bởi nỗi nhục quá lớn, Đăng Dung lâm bịnh và từ trần.
   

3.Thành phần thứ ba :

Một trong những giải pháp hòa bình được nêu trong Hội nghị Paris là thành lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần tại miền Nam, mà thành phần thứ ba là những người trung lập, sống và hoạt động chính trị-ngoại giao dưới chế độ VNCH. Những người thuộc thành phần thứ ba không bao giờ thừa nhận mình là cộng sản hay công cụ của công sản, đa số đều tự cho mình là những người bất đồng chính kiến đang đấu tranh cho tự do dân chủ. Mà chỉ đấu tranh một phía, với thể chế của chính quyền VNCH , đấu tranh một cách rất có ý thức trong việc lợi dụng các quyền tự do như ngôn luận hay biểu tình, gây bất ổn  trong một xã hội vốn đã bất ổn vì chiến tranh. Cao điểm là những năm sau Mậu Thân, lúc tương quan lực lượng quân sự có những thay đổi đáng kể, và cái bánh vẽ “chính phủ ba thành phần” đang được nhắc tới như một giải pháp thiết thực được các bên (vờ) quan tâm để lập lại hòa bình, lực lượng thứ ba với những trò thọc phá sau hậu phương nhân danh đấu tranh cho hòa bình và độc lập dân tộc lại càng diễn ra quyết liệt trong các phong trào đô thị.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, một số thành viên trong lực lượng thứ ba vẫn còn ảo tưởng, ôm mộng sẽ được chia phần trong chính phủ tương lai, đến trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất xin gặp phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cái mà họ nhận được sau đó là một bản sao của Bản tuyên bố ngày 26-4 : yêu cầu chính quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện, giải tán tất cả các thể chế không còn phù hợp trong tình hình mới. Nghĩa là giải pháp “Chính phủ liên hiệp ba thành phần” chỉ là một nước cờ trong cuộc chiến ngoại giao, nay không còn cần thiết trước một thắng lợi quân sự đã rõ ràng. Hình ảnh một Trịnh Công Sơn trưa ngày 30 tháng 4 lên đài phát thanh ôm đàn gẩy và tự hát “Nối vòng tay lớn”, sau tuyên bố đầu hàng của Dương văn Minh, rồi cũng ngay sau đó bị “mời” ra khỏi đài phát thanh là một hình ảnh hết sức ý nghĩa, tượng trưng cho một “lực lượng thứ ba” đang …hết tác dụng, như anh kép hát bị đoàn cải lương cắt hợp đồng, như một ca sỹ quần chúng bị lịch sự vỗ tay mời xuống khỏi sân khấu “hát với nhau” .

Ngày 2.5.1975 chính quyền quân quản ra tuyên bố giải thể mọi tổ chức, đoàn thể chính trị được thành lập dưới chế độ cũ, những người tự nhận là thành phần thứ ba phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau : một số lộ ra là Đảng viên Đảng CS tiếp tục tham chính, một số bỏ của chạy ra nước ngoài (!), một số (ít) nổi tiếng được chính quyền mới lưu dụng lại trong bộ máy cầm quyền như một hình thức trả công, tuy không được trọng dụng. Và cũng như những hàng tướng trong thời phong kiến, dù không bị kỳ thị ra mặt nhưng những kẻ này không bao giờ được tin tưởng giao cho những vị trí quan trọng, có thực quyền. Xin dẫn chứng bằng hai câu nói của những nhân vật nổi tiếng trong giới “thành phần thứ ba” ( xin đừng nhầm với “giới tính thứ ba”) như sau : “Sau 30 năm, tôi vẫn phải gánh trên lưng mình cái lý lịch “viên chức cao cấp chế độ cũ” như một cục bướu...,  tôi chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản  tin dùng trọn vẹn một người không phải của mình..Một trong những câu nói đầu tiên sau thời gian cha tôi bị tắt tiếng là nói với tôi một cách giận dữ: “ Tao không muốn gặp mầy nữa. Gia đình mày như thế này, cha mày như thế này, mà mày còn viết báo cho cộng sản. Tao từ mày.” ( Lý Quý Chung- Hồi ký không tên- Nhà xuất bản Trẻ TP Hồ Chí Minh). “Thật rất tiếc. Đáng lý ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế mà bây giờ ông lại ra đi ...” ( Thích Trí Quang- Sách đã dẫn).

Ngày nay bình tâm nhìn lại, ta cảm thương cho số phận những thanh niên miền Nam đã phải lên đường nhập ngũ và bỏ xác nơi chiến trường, lại càng khinh miệt những hàng tướng trong “lực lượng thứ ba”, những kẻ xuống đường đòi hỏi hòa bình ngay lập tức, cao giọng rao giảng đấu tranh cho sự tồn vong của dân tộc, đấu tranh nhân danh bảo vệ quyền con người (thậm chí là quyền …sướng), đấu tranh bảo vệ cho độc lập tự do, cho hòa hợp hòa giải dân tộc …nhưng sau đó im thin thít trước cảnh hàng vạn người trầm luân trong các trại cải tạo, hàng vạn người bỏ xác nơi Biển Đông, hàng vạn người lìa bỏ nhà cửa đi vùng kinh tế mới, hàng vạn người bị cướp mất đồng tiền tích góp bằng mồ hôi, nước mắt vì đổi tiền bất công, hàng vạn người tán gia bại sản vì cải tạo công thương nghiệp. Những nỗi đau, mất mát vật chất còn có thể kể ra được, còn những nỗi thống khổ tinh thần, ai có thể đo đếm được ?   


Thursday, October 23, 2014

CÔNG TỘI VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN : SỰ THẬT LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO ?

 KIẾN HÀO
  
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế - xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và được thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử, triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự phê phán, lên án hết sức nặng nề. Sách giáo khoa rất ít ghi công mà toàn là những lời lên án, thóa mạ cay độc cố tình giống như một cuộc trả hận. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển tên vua quan triều Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những tên khác như Nguyễn Hoàng (Trần Phú), Gia Long (Lý Tự Trọng), Thành Thái (An Dương Vương), Minh Mạng (Ngô Gia Tự), Hiền Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn Duyệt (Cách Mạng tháng 8), Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Nguyễn Huỳnh Đức ( Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) … Những ngôi trường miền Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa và các khai quốc công thần triều Nguyễn cũng chịu chung số phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký, Lê Văn Duyệt, Trịnh Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản …Đặc biệt địa danh “Gia Định” để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền Nam đã tồn tại hơn 200 năm cũng bị xóa mất. Người viết không có tham vọng “tan sương đầu ngõ vén mây cuối trời” nhưng cũng trộm nghĩ bản thân vốn dĩ là người dân miền Nam, theo gia phả thì tổ tiên là lưu dân theo đức Cao Hoàng vào Nam lập nghiệp từ rất sớm, lẽ nào đi ngược lại đạo lý “uống nước nhớ nguồn’ truyền thống của dân tộc Việt mà vào hùa với bọn bá đạo bắn súng vào quá khứ, nói theo ngôn ngữ hiện đại là “chọi lựu đạn” vào những người đã có công đi trước, mở cõi cho đến hôm nay cháu con còn thụ hưởng thành quả để lại. Chỉ ước mong sao có ngày, lịch sử sẽ được viết lại, trả lại sự thật như nó vốn có chứ không phải viết theo định hướng, lập trường hoặc chỉ đạo của cá nhân ai .    


1. KHAI HOANG MỞ CÕI :

a/. Vùng đất hứa của dân phiêu tán :

Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng xin vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa sau khi người anh là Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm giết chết để tranh quyền. “ Ô châu ác địa” không ngờ là mảnh đất dung thân, nơi các Chúa Nguyễn đứng vững và mở đầu cuộc Nam tiến của dân tộc Việt suốt ba thế kỷ, trải chín đời chúa. Văn thần triều Lê – Trịnh là Lê Quý Đôn mặc dù đứng trên lập trường đối nghịch cũng viết những nhận xét khách quan về Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) trong Phủ Biên tạp lục như sau : “ Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dụng pháp công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai xứ ( Thuận Hóa- Quảng Nam) thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng …” .(1)

Nửa cuối thế kỷ 16, cuộc chiến tranh Lê – Mạc đã vắt cạn kiệt nguồn lực của xứ Bắc Hà,  đói kém, mất mùa liên tiếp khiến dân cư hết sức khổ sở, tạo thành một làn sóng di dân vô vùng đất phía Nam giàu có của chúa Nguyễn. Đại Việt Sử ký toàn thư (2) ghi chép lại tình cảnh khốn cùng của dân Đàng Ngoài qua các năm như sau :

Năm 1570 Bấy giờ nhân dân các huyện ở Thanh Hoa tan tác tháo chạy, ruộng đồng bỏ không cày cấy, nhiều người bị chết đói.
Năm 1571 Năm ấy đất Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt
Năm 1572 Năm ấy, các huyện ở Nghệ An, đồng ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to, lại bị bệng dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt, kẻ thì lần vào Nam, người thì giạt ra Bắc, trong hạt rất tiêu điều
Năm 1589 Ngày 15, mặt trăng phạm vào sao Tuế. Đại hạn, Gạo kém. Nhiều người xiêu tán.
Năm 1592 Tháng 7 ngày mồng 6, lụt thình lình, nước sông chảy tràn, gò đống bị ngập, đạo Thanh Hoa lúa má mất mùa. Ngày 15 lại bị lụt. Dân miền Tây Nam cũng bị đói kém
Năm 1594 Bấy giờ nhân dân các huyện ở Hải Dương mất mùa to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến một phần ba.
Năm 1595 Bấy giờ nhân dân mất mùa, đói to, lại thêm ôn dịch, người chết xác gối lên nhau.
Năm 1596 Bấy giờ đại hạn, thóc lúa vụ chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không kết trái. Trộm cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến bảy tám trăm đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải gia súc, thủy bộ không thông, đường sá bế tắc, dân đói nhiều, chết đến quá nửa.

Có thể nói, hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam sau khi được Nguyễn Hoàng an định, đã trở thành vùng đất hứa cho hàng ngàn người dân trải dài từ Thăng Long đến Thanh Nghệ, họ là nạn nhân của những năm mất mùa đói kém và chiến tranh thảm khốc giữa nhà Lê và nhà Mạc (3). Đợt di dân tự nguyện này cũng giúp giải quyết áp lực dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn, mở đầu cho các cuộc Nam tiến sau này, những cuộc di dân đã làm tăng thêm sức mạnh dân tộc và giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ bị Hán hóa.  

b. Mở cửa thị trường trong nước, đẩy mạnh giao thương với các thương nhân nước ngoài:

Chính sách trọng thương của chúa Nguyễn đã khuyến khích các thương nhân nước ngoài vào làm ăn buôn bán khiến các thương cảng Thanh Hà, Hội An ở Đàng Trong trở nên sầm uất phát đạt lôi kéo theo các nghề thủ công, tiểu thủ công như trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, gốm sứ, nghề gỗ, đóng tàu … phát triển đến cực thịnh. Nguồn thu thuế, lợi tức từ việc trao đổi mua bán hàng hóa chính là nguồn hỗ trợ chu cấp quân lương cho chúa Nguyễn trong cuộc chiến với Đàng Ngoài. Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Minh khiến hàng hóa Nhật muốn vào Trung Quốc và ngược lại đều phải trung chuyển qua các cảng Đàng Trong, vô tình khiến các thương cảng Hội An Thanh Hà càng thêm sầm uất. Số tàu buôn Trung Hoa đến thương cảng Hội An từ 1647 đến 1720 nhiều hơn số tàu đến bất cứ nước nào khác trong vùng. (4)    

Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, một người quê gốc Bình Định và có thiên kiến với triều Nguyễn cũng phải nhìn nhận : “ …nhìn lại trong sự phát triển quyền lực của họ Nguyễn, căn bản tổ chức tuy là theo khuôn mẫu của một chính quyền phương Đông nhưng trong tình thế riêng biệt của vùng và của thời thế, yếu tố thương mại đã có dáng quan trọng đến mức chứa chấp cả sự hưng vong của dòng họ. Không phải chỉ vì nhu cầu tự vệ với Trịnh mà Nguyễn bị buộc phải củng cố phát triển. Trong một trăm năm ngưng chiến, họ vẫn trên đà gia tăng cường thịnh để có những toan tính dòm ngó đất Đàng Ngoài, và chuẩn bị xưng vương lập nước …”.(5)

Nhà du hành hàng hải người Anh John Barrow (1764-1848) là một người vận động cho công cuộc giao thương giữa công ty Đông Ấn và xứ Nam Hà (6) đã có những nhận xét về kinh tế Đàng Trong như sau : “ …Theo ý tôi, sự liên kết thân thiết với Nam Hà sẽ mở ra một con đường lớn cho việc thực hiện mục tiêu này. Đất nước này sẽ cung cấp  nhiều mặt hàng có giá trị thích hợp với thị trường Trung Quốc, và sẽ mở ra một lối thoát rất lớn để tiêu thụ nhiều hàng hóa của chúng ta, và vị trí của nó nằm trên con đường đi thẳng từ Anh tới Trung Quốc là một điều không thể không suy nghĩ. Chẳng hạn như những khu rừng Nam Hà sẽ cung cấp nhiều loại gỗ hương liệu khác nhau như hồng đào, trầm hương, kỳ nam …tất cả đều được tán thưởng ở thị trường Trung Quốc, được trả với giá cực kỳ cao. Quế chi xứ Nam Hà, mặc dù hơi thô và hương vị cay nồng, nhưng người Trung Hoa vẫn thích nó hơn thứ quế Tích Lan (Ceyland) …Gạo là nhu cầu không thể thiếu của thành phố Quảng Châu đông đúc, còn đường và hạt tiêu cũng đều được hoan nghênh, tất cả các mặt hàng này đều được sản suất dồi dào trong các thung lũng phì nhiêu xứ Nam Hà. Ngoài những sản vật này, còn có thể kể thêm cau, sa nhân, gừng và các loại gia vị khác, cùng những tổ chim yến thu lượm được rất nhiều trên những cụm lớn các đảo chạy song song với bờ biển mà trên các hải đồ có tên là Paracels (Hoàng Sa)…”. (7)

c/. Mở rộng biên cương vạn dặm :

Nhà sử học Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược ( Chương VI: Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam) đã viết : “ Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất phì nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lớn lắm vậy”. (8)

Đầu thế kỷ 17, xứ Quảng Nam (gồm cả Quảng Ngãi và Quy Nhơn) là vùng đất cực nam của Đại Việt giáp với Chiêm Thành. Năm Tân Hợi 1611 chúa Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa.

Năm Quý Tỵ 1653, vua nước Chiêm là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm xin hàng. Chúa Nguyễn lấy đất đặt làm phủ Diên Khánh ( Khánh Hòa bây giờ).

Năm Quý Dậu 1693, vua Chiêm là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi đánh, bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ, qua năm 1697 lại đổi làm phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Rí, Phan Rang làm huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Nước Chiêm Thành bị diệt.

Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm Khâm sai Kinh lược sứ, vào nam lập phủ Gia Định gồm hai huyện : huyện Phước Long ( Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn (9); lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và tha thuế để khuyến khích khai khẩn ruộng đất. Những người Tàu di dân ở đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì lập làm xã Minh Hương. Những người Tàu này đều thuộc sổ bộ dân nước ta. Phủ Gia Định khi ấy dân số ước chừng bốn vạn hộ ( 20 vạn người).

Năm 1708, Mạc Cửu cai quản đất Hà Tiên (kể cả Phú Quốc) xin thuộc về Đàng Trong. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra trấn Hà Tiên, để Mạc Cửu làm tổng binh giữ đất ấy.

Năm 1732, vua Sâtha của Chân Lạp xin cắt hai vùng Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn Phúc Chú (Trú) để tạ ơn dẹp loạn. Chúa Nguyễn đặt dinh Long Hồ và lập châu Định Viễn.

Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho nối chức, tiếp tục mở rộng Hà Tiên đến Rạch Giá và Cà Mau. Năm 1757, chúa Nguyễn đặt ra đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và đạo Long Xuyên (Cà Mau) đều thuộc về Trấn Hà Tiên.

Năm 1753, vua Chân Lạp là Chey Chêtthâ V (tức Nặc Nguyên) bị chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh cử binh phạt tội vì thông sứ với chúa Trịnh và ức hiếp người Côn Man (dân Chămpa lưu vong). Năm 1755 vua Chân Lạp bị đánh thua, bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ giúp tâu với chúa Nguyễn xin nộp hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Tân An và Gò Công) để tạ tội. Chúa Nguyễn cho nhập hai vùng đất ấy vào châu Định Viễn.

Năm 1759, Nặc Nguyên mất, chú là Nặc Nhuận xin dâng hai vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng để được công nhận là vua Chân Lạp. Đến đây thì toàn bộ bờ biển hình chữ S của nước ta đã định hình.

Năm 1760, Nặc Nhuận bị rể là Nặc Hinh giết chết. Quan tổng suất triều Nguyễn là Trương Phúc Du đem quân sang đánh. Nặc Hinh thua chạy và bị giết. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn (Ang Tong) được lên nối ngôi vua Chân Lạp, xin dâng đất Tầm Phong Long ( Sa Đéc) để tạ ơn. Đến đây thì quá trình Nam tiến kể như hoàn tất.

Nặc Tôn lại dâng năm phủ là Kampot, Kompong Som, Chal Chun, Bantey Méas, và Raung Veng để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho nhập tất cả vào trấn Hà Tiên. Năm 1841, vua Thiệu Trị trả năm phủ ấy lại cho Chân Lạp, ngày nay là hai tỉnh Kampot và Tà Keo.

Nhà thơ Nguyễn Duy trong dịp về thăm đền thờ các chúa Nguyễn ở xã Hà Long, Hà Trung, Thanh Hóa đã viết những dòng ray rứt : “ Nhà Nguyễn đã có công lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự thật hiển nhiên, vậy mà không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị bóp méo đến biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính thống, bị hạ thấp một cách oan ức về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa, bị ruồng bỏ nhiều bài vị tôn kính, bị xóa tên đường phố nhiều vua chúa kiệt xuất. Tại sao ?” (10)


2. THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC SAU 300 NĂM PHÂN LIỆT :


Có lẽ chưa từng có đất nước nào mà sự cát cứ, chống đối giữa các thế lực phong kiến lại kéo dài như Đại Việt, suốt từ nửa đầu thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, bức tranh lịch sử với những sự kiện bi hùng xảy ra dồn dập. Cuộc chiến Nam Bắc triều vừa chấm dứt thì cuộc chiến Trịnh – Nguyễn lại tiếp tục đưa đất nước vào cảnh chia cắt hàng trăm năm lần thứ hai. Xen vào đó là phong trào Tây Sơn nổi lên cuối thế kỷ 18. Những cuộc chiến làm suy yếu nội lực đất nước, gây chia rẽ giữa các vùng miền và tạo cơ hội cho các cuộc ngoại xâm, cũng như để lại hệ quả là những dấu ấn khác biệt về văn hóa, tính cách, ngôn ngữ, tập quán trong quá trình phát triển đất nước, con người Việt Nam giữa các địa phương.

 a/. Chiến tranh Nam –Bắc triều :

Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc mở đầu giai đoạn chiến tranh Nam – Bắc triều suốt thế kỷ 16. Bắc triều lấy Dương Kinh (Hải Dương) làm kinh đô thứ hai, dựa vào quân bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam và Kinh Bắc để chống lại quân Nam triều cát cứ vùng Thanh Nghệ. Chiến trường khi thì ở trong Thanh Hóa, Nghệ An khi thì tại kinh đô Thăng Long hoặc Sơn Nam, Hải Dương tùy tình hình tương quan lực lượng hai bên nhưng nhìn chung cuối cùng chỉ nhân dân là gánh chịu tất cả thiệt hại. Năm 1592, Trịnh Tùng thắng trận quyết định lấy lại kinh đô Thăng Long và giết chết Mạc Mậu Hợp. Tàn quân họ Mạc tuy còn chiếm giữ đất Cao Bằng do được nhà Minh chống lưng cho nhưng suy yếu dần, đến 1625 thì dứt hẳn. Tính ra họ Mạc làm chủ miền Bắc được 65 năm, sau đó tàn dư kéo lên Cao Bằng nối dài thêm được 33 năm nữa, vị chi là 98 năm. Cuộc chiến Lê-Mạc đã làm suy yếu nội lực của Đại Việt, một quốc gia cường thịnh lúc bấy giờ trong vùng Đông Nam Á, trước đó không kể Chăm Pa, Ai Lao, Chân Lạp mà cả các tiểu vương quốc trong vùng Malacca (quần đảo Nam Dương) cũng phải giao hảo và nộp cống. Những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được thời Lê sơ dưới triều đại các vị anh quân Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông đều bị chiến tranh làm mai một, chất lượng cuộc sống bị kéo lùi hàng trăm năm, nạn đói xảy ra khắp nơi ngay cả tại vùng lưu vực sông Nhị Hà là vựa lúa lớn nhất thời bấy giờ.
   
b/. Trịnh – Nguyễn phân tranh :

Việt Nam sử lược ( chương III, trang 274, sđd) viết : “ Năm Kỷ Hợi 1599, đời vua Thế tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu xếp xong việc thông sứ với nhà Minh, và đã chịu nhường đất Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc rồi, trong nước đã yên dần, bèn tự xưng làm Đô nguyên súy tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương, rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế một ngàn xã gọi là lộc thượng tiến, cấp cho vua 5000 lính để làm quân túc vệ. Còn những việc đặt  quan, thu thuế, bắt lính, trị dân đều thuộc về quyền họ Trịnh cả. Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến vua mà thôi. Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập làm vương, tục gọi là chúa Trịnh …”. Năm 1627, Trịnh Tráng đem quân vào nam đánh Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) lần thứ nhất, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn. Trong 45 năm đối đầu, họ Trịnh chủ động vào đánh 6 lần, họ Nguyễn chỉ đánh ra một lần nhưng đều bất phân thắng bại. Sau trận chiến năm Nhâm Tý 1672, sông Gianh (Linh Giang) được chọn làm ranh giới phân chia Nam Bắc. Kể từ đó, đất nước bị chia cắt hơn một trăm năm nữa, miền Bắc (Đàng Ngoài) sống dưới chế độ vua Lê-chúa Trịnh mà vua Lê chỉ là bù nhìn (11); miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng cương vực Đại Việt đến tận mũi Cà Mau. Năm Giáp Ngọ 1774,  nhân nhà Nguyễn có nội loạn (Tây Sơn khởi binh), họ Trịnh cho tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh lấy đất Thuận Hóa và Quảng Nam. Đây là lần đánh nhau cuối cùng giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn.

c/. Phong trào Tây Sơn :

Năm 1765, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát từ trần, cường thần Trương Phúc Loan chuyên quyền đẩy sự nghiệp hai trăm năm chúa Nguyễn vào thế tuyệt địa : kinh tế yếu kém, lòng dân ly tán, nội bộ chia rẽ. Nhân cơ hội đó, một hào phú vốn là chức sắc trong bộ máy thu thuế địa phương là Nguyễn Nhạc (Biện Nhạc) (12) tự xưng “Tây Sơn trại chủ” đã đứng lên tập hợp dân nghèo dưới lá cờ “cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo” chống lại chính quyền Đàng Trong. Chỉ trong ba năm , quân khởi nghĩa chiếm trọn một dải đất từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, trở thành một lực lượng đối trọng với chính quyền Lê-Trịnh ngoài Bắc và họ Nguyễn trong Nam. Bị đánh dồn ép từ hai phía, Định vương Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân vào Gia Định tính chước khôi phục. Năm 1775, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc thỏa hiệp với Nguyễn Nhạc rút quân về chiếm đóng Phú Xuân, nhường đất Quảng Nam cho Tây Sơn cai quản. Tháng ba năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào Nam bắt giết Định Vương ở Long Xuyên và Tân Chính Vương ở Bến Tre (13). Tháng năm năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ tiến chiếm Phú Xuân, thừa thắng tiến thẳng ra Bắc,  giương cờ “Phù Lê diệt Trịnh” truy đuổi và bắt giết Trịnh Tông, giao lại quyền cai quản xứ Bắc Hà cho dòng chính thống là vua Lê Chiêu Thống (14).  

d/. Đại Việt trước nguy cơ tan rã :

Năm 1786, sau khi chiến thắng quân Trịnh trở về, đất Tây Sơn được chia ba : Nguyễn Nhạc tự xưng Trung Ương Hoàng Đế đóng đô tại Quy Nhơn, phân phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản hai xứ Quảng Nam và Thuận Hóa, còn Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản toàn bộ đất Gia Định kể cả Bình Thuận. Mỗi nơi đều có hệ thống chính quyền riêng, độc lập với hai nơi kia, thậm chí đối địch nhau mặc dù vẫn mang tên gọi chung là Tây Sơn. Phong trào khởi nghĩa nông dân với chiêu bài “ cướp của người giàu chia cho dân nghèo” đã đi đến điểm kết thúc với sự thành lập nhà nước quân chủ phong kiến mới! Chính sự phong kiến hóa quá sớm đó vô hình chung đã giúp cho chúa Nguyễn có cơ hội trung hưng vì nhờ mảnh đất của vua Thái Đức làm trái độn, tránh đối đầu trực tiếp với kẻ thù mà ông chỉ toàn đánh thua. Nếu kể thêm xứ Bắc Hà (An Nam cũ) do vua Lê Chiêu Thống cai trị thì lúc này bức dư đồ Đại Việt như mảnh áo vá rách chia làm bốn mảnh : từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa thuộc vua Lê, từ Nghệ An đến Quảng Nam thuộc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi đến Phú Yên thuộc vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, từ Bình Thuận vào nam là của Đông Định Vương Nguyễn Lữ. Nhiều người thất vọng vì viễn tượng tập đại thành thống nhất đất nước đã không xảy ra, chẳng những thế ở cả ba miền Bắc Trung Nam sau đó đều xảy ra chiến tranh dữ dội, cục diện xoay chiều liên tục giữa các thế lực phong kiến.

Đầu năm 1787, (15) Nguyễn Huệ đem quân Tây Sơn Thuận Hóa vào bao vây đánh phá kinh thành Quy Nhơn, Nguyễn Lữ phái Đặng Văn Chân (Trân) đem quân Tây Sơn Gia Định về cứu viện bị Nguyễn Huệ đánh tan tại Phú Yên, bản thân Chân bị bắt sống (16). Thành Quy Nhơn ( Đồ Bàn cũ) bị vây ba vòng, quân Tây Sơn Thuận Hóa đắp núi đất trên đặt súng lớn bắn vào trong thành, Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc lóc, kêu gọi : “ Nồi da nấu thịt lòng em sao nỡ thế”, Nguyễn Huệ mới thu quân giảng hòa. Bản Tân (Quảng Ngãi) trở thành địa giới giữa Tây Sơn Thuận Hóa và Tây Sơn Quy Nhơn. Nguyên nhân là do bất đồng giữa hai người trong việc phân chia số chiến lợi phẩm quý giá thu được trong phủ chúa Trịnh (17), việc tranh giành cai quản đất Quảng Nam và nhất là việc Nhạc bạo ngược giết công thần Nguyễn Thung, thông dâm với vợ Nguyễn Huệ khiến ông tức giận mà từ chối lịnh đi chầu (Đại Nam Liệt truyện, quyển 30, trang 13b, 14a). Từ nay mối rạn nứt giữa hai anh em Nhạc - Huệ không còn cơ hội hàn gắn nữa mà kéo dài đến tận thế hệ sau giữa hai anh em chú bác ruột là Nguyễn Bảo và Quang Toản, kết cục Toản giết chết Bảo cuối năm Mậu Ngọ 1798. Ngay cả khi vua Quang Trung mất (năm 1792), Quang Toản cũng không cho người bác ruột ra viếng tang, khiến Nguyễn Nhạc đi đến đầu địa giới phải quay trở lại Quy Nhơn.

Mùa đông năm Đinh Mùi (1787), sau khi đã giảng hòa với vua anh, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh mang tội chuyên quyền, lấy oán báo ơn, mưu đối địch. Chỉnh bị giết chết, vua Lê bỏ kinh thành trốn tránh trong các hương ấp, nay Hải Dương, mai Sơn Nam rồi lại trở về Kinh Bắc. Tây Sơn áp đặt chế độ quân quản lên các trấn xứ Bắc Hà, hoàng thân Lê Duy Cận được cử làm Giám quốc bù nhìn chỉ biết ngày ngày đến tướng phủ Tây Sơn chờ mệnh lệnh (18). Tháng ba năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình Vương lại thân ra Bắc diệt Nhậm (19). Những rối loạn thay bậc đổi ngôi liên tục diễn ra trong một thời gian ngắn khiến tình hình Bắc Hà thực sự rối ren, các võ tướng cũ của chúa Trịnh và các hào mục địa phương nổi lên quy tụ từ vài trăm đến vài ngàn thổ binh tự quản lấy, phép nước không còn ai tôn trọng. Trong lúc ấy tình hình miền Nam cũng không hơn gì.     

e/. Nguyễn Vương Ánh lấy lại Gia Định :

Năm 1786, Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định Vương, cai quản một vùng đất trù phú rộng lớn từ Bình Thuận trở vào. Tuy nhiên, lực lượng quân Tây Sơn đóng trên đất Gia Định giống như một đạo quân chiếm đóng hơn là quân phò chính diệt tà. Quan hệ giữa quân với dân vẫn giữ khoảng cách nếu không muốn nói là thù địch. Hệ thống chính quyền quân quản do các võ quan đứng đầu chỉ quen ra những mệnh lệnh tịch thu, sung công, cấm đoán, bắt bớ chứ không biết ra những chính sách an dân như chính quyền Tây Sơn Bắc Hà. Người Minh Hương ở Trấn Biên và Phiên Trấn vẫn còn nhớ vụ đốt phá Nông Nại Đại Phố năm 1777, vụ tàn sát người Hoa để trả thù quân Hòa Nghĩa sau cái chết của Phạm Ngạn năm 1782, gần nhất là vụ ép dời chợ Bến Nghé về Cầu Sơn cho dễ thu thuế của Nguyễn Lữ. Tóm lại, quân Tây Sơn chỉ biết “bình” chứ không biết “định”, dù thời gian chiến đóng có ngắn nhưng không phải là không có cơ hội tổ chức quản lý lãnh thổ. Phàm lòng dân không theo thì dù lực lượng quân sự có mạnh đến đâu cũng giống như cây tầm gửi, rể không bén đất thì làm sao tính kế lâu dài cho được. Nên cứ mỗi lần quân Tây Sơn chủ lực rút về Quy Nhơn, Nguyễn vương mộ binh khôi phục thì dân chúng miền Nam vẫn còn nhớ ơn chúa cũ bèn “xứ xứ tịnh khởi”.

Tháng 7 năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn vương từ Xiêm La trở về, thu phục một số hàng tướng Tây Sơn như Nguyễn văn Trương, Nguyễn Đăng Vân và tập hợp được một số quân tướng cũ, lực lượng lại mạnh lên. Từ Long Xuyên, chúa Nguyễn tiến lên đóng ở Ba Giồng (Tiền Giang ngày nay), lại được Võ Tánh đem quân ở Gò Công về giúp, quân Nguyễn dùng hỏa công phá tan lũy Ngũ Kiều của Tây Sơn, thừa thắng tiến lên chiếm lại đất Đồng Nai, vây chặt thành Gia Định. Tháng bảy năm Mậu Thân 1788, Nguyễn vương đánh thắng một trận lớn ở rạch Thị Nghè (Bến Nghé), lại bịt kín đường thoát ra biển khiến Phạm văn Tham phải rút về Hàm Luông rồi về Ba Thắc. Tháng tám năm đó, chúa Nguyễn nhập thành Gia Định, chiêu an trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các tướng sĩ. Qua năm sau 1789, Phạm văn Tham đầu hàng vì tuyệt lương mà không thấy viện binh. Tây Sơn mất toàn bộ đất Gia Định. Quân Nguyễn từ đây chuyển dần từ thế thủ sang thế công còn quân Tây Sơn thì ngược lại. 

g/. Nhà Tây Sơn tự gây ra họa diệt vong :

Là người dân Việt, hầu như không ai là không biết đến chiến thắng Đống Đa oanh liệt, một chiến thắng chống ngoại xâm giúp giữ vững chủ quyền lãnh thổ, ngăn ngừa âm mưu đưa đất nước vào vòng Bắc thuộc một lần nữa của những kẻ đặt quyền lợi cá nhân, sự tồn tại của dòng tộc cao hơn sự thiêng liêng của đôc lập dân tộc. Chiến thắng của hoàng đế Quang Trung đã đem lại chính danh cho vương triều mới, đẩy triều đại Lê Trịnh mục ruỗng lùi vào quá khứ và thu phục được lòng dân xứ Bắc. Tiếc thay, cái chết đột ngột của người anh hùng áo vải đuổi Nguyễn, diệt Lê, tuyệt Trịnh, đánh tan hai đạo binh xâm lược ở hai đầu đất nước xảy ra quá sớm đã khiến cho vương triều Tây Sơn lụi tàn vì không có người kế thừa xứng đáng.

Thiếu người cầm chịch, các quan đại thần ghen ghét tìm cách vu cáo hãm hại lẫn nhau khiến sức mạnh Tây Sơn bị suy yếu đi. Thái sư Bùi Đắc Tuyên giẫm lên vết xe đổ của Trương Phúc Loan năm nào: tự chuyên lộng quyền, truy bức công thần, hiếp chế ấu chúa, tham lam tư lợi. Năm 1795, Vũ Văn Dũng nghe theo lời xúi giục của Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ đem quân từ Bắc Hà về bắt giết Bùi Đắc Tuyên và con là Bùi Đắc Trụ. Sau đó lại cho bắt Đại tư mã Ngô văn Sở về Phú Xuân, dìm nước chết đi. Nghe tin, Trần Quang Diệu đem quân từ Diên Khánh về toan bắt Dũng hỏi tội. Nhờ Quang Toản và các tướng hết sức can ngăn, cả hai mới chịu giải hòa. Năm 1798 Quang Toản nghe theo lời xúi giục của bọn cận thần giết chết Thiếu phó Nguyễn văn Huấn và Đại tư lệ Lê Trung, con Trung là Lê Chất bèn về hàng chúa Nguyễn. Từ đấy quá trình suy sụp của Tây Sơn diễn ra nhanh chóng vô phương cứu vãn. Lịch sử đất nước rẽ sang một chương khác.
                         
h/. Vua Gia Long thống nhất đất nước :

Tháng năm năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn vương đem quân ra vây thành Quy Nhơn. Trấn thủ Lê Văn Thanh chống giữ không nổi phải mở cửa thành đầu hàng. Quy Nhơn bị đổi tên thành Bình Định. Tháng giêng năm Tân Dậu (1801) quân Nguyễn đánh thắng một trận thủy chiến lớn ở cửa Thị Nại, tiêu diệt gần hết tàu thuyền chủ lực của Tây Sơn, từ đó làm chủ mặt bể. Ba tháng sau, quân Nguyễn lại thắng trận thủy chiến ở cửa Thuận An, tiến lên vây đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn Quang Toản bỏ chạy, chúa Nguyễn thu phục lại được đô thành sau 27 năm bị chiếm đóng. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).

Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), vua Tây Sơn đem quân 4 trấn Bắc Hà và quân Thanh Nghệ vào đánh lũy Trấn Ninh, lại sai tướng đem 100 chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ (Quảng Bình ngày nay). Bị thủy quân của chúa Nguyễn đánh bại, quân Tây Sơn phải rút lên bộ rồi bỏ Trấn Ninh chạy về Nghệ An. Đây cũng là cố gắng tận lực cuối cùng của vua tôi Quang Toản trước lúc triều Tây Sơn cáo chung. Tháng năm năm Nhâm Tuất, Nguyễn vương lên ngôi tôn tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên. Tháng sáu, quân Nguyễn triều Bắc tiến, thế như chẻ tre, nội trong một tháng đánh lấy Thanh Nghệ rồi tràn ra Thăng Long, tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Thọ mở cửa thành ra hàng, vua Gia Long nhập thành chiêu an, đổi tên Thăng Long thành Bắc thành. Tháng bảy cùng năm, vua Gia Long trở về kinh đô Phú Xuân, mở đầu giai đoạn thống nhất đất nước từ Nam tới Bắc, thu giang sơn về một mối.
   
Nhận xét về sự kiện này, nhà nghiên cứu lịch sử Đỗ Bang đã viết trong tham luận “Triều Nguyễn-sau 200 năm nhìn lại” (20), xin trích dẫn một đoạn : “…Một số ý kiến cho rằng triều Nguyễn là phản động vì đã đánh bại triều Tây Sơn, một triều đại có những cống hiến to lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, lật đổ được chế độ phong kiến cát cứ Đàng Trong-Đàng Ngoài cũng không đúng. Vì những yếu tố tích cực, tiến bộ của phong trào Tây Sơn mà nhân dân ta đã giành được dưới thời Nguyễn Huệ đã không còn phát huy sau ngày vua Quang Trung mất (1792). Triều đại Tây Sơn dưới thời vua Cảnh Thịnh đã thoái hóa, biến chất, suy đồi dẫn đến mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt, là nguyên nhân dẫn đến thất bại trước áp lực quân sự của Nguyễn Ánh. Vương triều Tây Sơn đã làm mất lòng dân, không được nhân dân đồng tình ủng hộ nên quân Nguyễn thắng Tây Sơn là việc thường tình và dễ hiểu…”.

Như vậy kể từ năm 1527 đến năm 1802 là 275 năm chia cắt, đất nước mới trở lại thống nhất. Năm 1527, lãnh thổ phía nam Đại Việt chỉ đến núi Đá Bia (Phú Yên). Nếu tính từ đời chúa Nguyễn Hoàng (1558) đến đời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1765), trải 8 đời chúa trong 207 năm đã mở rộng cương vực Đại Việt lớn gấp đôi; trong lúc đó ở phía Bắc, năm 1540, Mạc Đăng Dung đã cắt đất 4 động châu Vạn Ninh (Quảng Ninh ngày nay) dâng cho triều Minh để cầu phong. Công lao to lớn của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở rộng đất nước, cũng như công lao thống nhất, quy giang sơn về một mối của vua Gia Long cho dân Việt yên nghiệp làm ăn, đem lại một cuộc sống thái bình cho lê dân sĩ thứ sau gần ba trăm năm loạn lạc là một sự thật không thể chối cãi.


3. THỬ TÌM CĂN NGUYÊN CỦA NHỮNG ĐỊNH KIẾN CAY NGHIỆT :

a/. Vì sao Thăng Long trở thành phế đô  :

Thăng Long ngàn năm văn hiến, với vai trò vị trí là kinh đô của nước Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18, niềm tự hào của sĩ phu và dân chúng Bắc Hà, sự thực đã chấm dứt vai trò lịch sử từ năm 1788 dưới triều Tây Sơn chứ không phải năm 1802 dưới thời Gia Long, vị vua mở đầu  triều Nguyễn như nhiều người lầm tưởng. Năm 1786, họ Trịnh thất bại trong việc khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền, làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Thăng Long - Hà Nội. Điều này được sách Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau: “ Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là Án Đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt..Thế là hai trăm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành bãi đất cháy đen. Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ (1786)…”(21). Như vậy đã rõ, chính Lê Chiêu Thống là kẻ đã ra lịnh hủy hoại công trình kiến trúc có giá trị vào loại bậc nhất của Thăng Long chứ không phải Nguyễn Hữu Chỉnh làm chuyện này như nhiều sách đã viết (22).

 Năm sau 1787, Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Chiêu Thống bỏ kinh đô bôn tẩu và Thái hậu chạy sang Quảng Tây cầu viện nhà Thanh (23). Xứ Bắc Hà trở  thành một phần lãnh thổ của Tây Sơn và kể từ đây Thăng Long không còn là kinh đô nữa. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Quang Trung tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt 29 vạn quân Thanh. Mười ba năm sau (1802), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế cũng tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt bọn Quang Toản, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, kinh đô Phú Xuân hai lần chứng kiến hai cuộc lên ngôi chính danh của hai vị hoàng đế trước khi Bắc phạt , một để đánh đuổi quân xâm lược ngoại bang, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, một chấm dứt cuộc nội chiến, thu giang san về một mối. Trong cả hai lần , Thăng Long đều đóng vai trò chứng nhân lịch sử một cách thụ động.

Có thể nói Thăng Long trở thành phế đô là một tất yếu của lịch sử, do sự tác động chính từ bên trong (sự mục ruỗng thối nát của chế độ Lê-Trịnh) chứ không phải do một thế lực bên ngoài nào, Tây Sơn chỉ đóng vai trò là người kết thúc mà thôi. Nếu không phải là Tây Sơn thì cũng là một lực lượng khác từ phía Nam hoặc từ phía Bắc tiến vào xóa sổ nhà Lê mạt như lời của Vũ Văn Nhậm (24). Ai ở trong cảnh nước mất nhà tan thì mới hiểu cho nổi niềm của kẻ nhà tan nước mất, chúng ta hết sức thương cảm cho tấm lòng trung trinh hoài Lê của Nguyễn Du và Bà Huyện Thanh Quan nhưng xâu chuổi các sự kiện lại thì Thăng Long sụp đổ là một biến cố rất logic (!) bởi vượng khí đã lụi tàn. Lòng riêng ai đó có thể vì nuối tiếc mà sinh lòng oán ghét cái mới nhưng nếu bình tâm xem xét thì Thăng Long lúc ấy thua xa Phú Xuân và Gia Định về mọi mặt : kinh tế suy thoái, trật tự suy đốn, đạo lý lụi tàn, dép mũ đảo lộn. Điển hình là việc viên trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Cảnh Thước trấn lột cả vua Lê Chiêu Thống thế cô đang trên đường bôn tẩu “ …Vua cho Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua cùng đám người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt cởi áo ngự bào trao cho chúng, rồi chạy về núi Như Thiết”.(25) Thật khác với vua Gia Long, dù bao phen bị Tây Sơn truy đuổi gay gắt thập tử nhứt sinh nhưng đều vượt qua được nhờ sự chở che của người dân miền Nam. Hoặc trường hợp tên tiểu lại làng Hạ Lôi Nguyễn Trang phản thầy bán chúa:  “ Quán nghe tin có việc biến (chúa bị bắt-KH), thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói : Làm lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả. Tông đáp : người ta ai có bụng nấy, khanh có can dự gì. Quán lui trở vào, bảo Trang : Chúa là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh.Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế . Trang đáp : Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để cho quan lớn làm cho lầm lỡ đâu. Tiếp đó Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô” (26).

Về mặt võ bị, hãy nghe những lời giễu cợt của tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở, “trưởng ban quân quản" Bắc thành nói với viên quan cựu Lê lưu dụng là Ngô Thời Nhậm “ …nếu giặc Thanh có sang thì phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc, nếu không thì túi đao bao kiếm là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo …” (27) hoặc những lời khích tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh khi khuyên Nguyễn Huệ thừa thắng tiến ra đánh lấy Bắc Hà “xứ ấy không còn nhân tài” mặc dù hơi miệt thị nhưng cũng có phần sự thật như sau này lịch sử đã chứng minh (28). Qua đó, chúng ta thấy Thăng Long không tự bảo vệ được mình, các đạo quân chiếm đóng lần lượt đến rồi đi như quân Tây Sơn của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ (1786), quân Nghệ An của Nguyễn Hữu Chỉnh (1787), quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (1787), quân Thanh xâm lược của Tôn Sĩ Nghị (1788), quân Tây Sơn của vua Quang Trung (1789) rồi sau này là quân Nguyễn của vua Gia Long (1802) thay nhau vào ra Thăng Long như chốn không người, một phần bởi địa hình công dễ thủ khó nhưng phần lớn do tướng bất tài, quân bê trễ, triều đình không còn kỷ cương.    

Thuở sinh tiền, vua Quang Trung đã chọn Nghệ An làm kinh đô vì đó là trung tâm của đất nước do ông cai quản ( từ Quảng Nam đến Lạng Sơn) chứ cũng không chọn Thăng Long. Tiếc thay, vận số quá ngắn ngủi của người anh hùng Tây Sơn khiến dự định không thành. Hãy nghe lời trối trăng của vua Quang Trung cho bọn Trần Quang Diệu : “…khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải lo chôn cất, việc tang làm lạo thảo thôi. Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì bọn ngươi chết không có đất chôn thây đấy ..”(29). Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường lý giải việc tại sao Quang Toản không thiên đô như di mệnh của vua Quang Trung như sau :

“ Tính chông chênh của nhóm Tây Sơn Quang Trung thấy đầu tiên ở nơi vị trí trú đóng. Nòng cốt của quân lực thì lấy ở đất Quy Nhơn mà lại đứng chân trên kinh đô của giòng họ Nguyễn. Người cầm đầu cũng thấy điều ấy nên lăm le trở về Nghệ An, quê của tổ tông để tìm sự liên kết cố cựu. Tuy nhiên thực tế đất ấy lại không còn là của họ nữa vì những người dân đang phải chịu tai ách của chiến tranh hơn cả lúc trước, như lời Nguyễn Thiếp trình bày, thì không có lòng dạ nào nhận bà con với người áp bức họ được. Quang Toản sau đó vẫn ở Phú Xuân là minh chứng”. (30)

Sau ngày thống nhất đất nước, vua Gia Long cũng không chọn Thăng Long làm kinh đô vì nơi ấy không còn là trung tâm Đại Việt nữa. Các chúa Nguyễn đã mỡ cõi rất xa về phía Nam suốt ba thế kỷ, đến tận Phú Quốc và Côn Đảo. Nhà Thanh sau đó đã phong cho Gia Long làm vua nước Việt Nam, Thăng Long trở thành Bắc thành, ngang với Gia Định thành. Huế tiếp tục là kinh đô cho đến khi thực dân Pháp chia ba đất nước bằng hòa ước Nhâm Tuất 1874.
Tóm lại , “hào khí Thăng Long” trải qua các đời Lý, Trần, Lê đến cuối thế kỷ 18 đã lụi tàn, cùng với việc ra đời của vương triều Nguyễn, Huế (Thuận Hóa) trở thành trung tâm đất nước về mọi mặt hành chính, kinh tế, văn hóa, quân sự là một sự thay đổi hợp quy luật biến đổi của vạn vật. Không có gì lạ.

b/. Thành kiến cục bộ địa phương và quan điểm chính trị của giới Sử học Hà Nội dẫn đến những nhận xét bất công, áp đặt, cực đoan đối với nhà Nguyễn :   

“ …sự thắng thế của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn có thể coi là sự thắng thế của những nhân tố bảo thủ lạc hậu đối với những yếu tố tiến bộ…”  (Nguyễn Ngọc Cơ, “Một giai đoạn của lịch sử Việt Nam thời Nguyễn và những câu hỏi cần giải đáp thỏa đáng”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 10).

“ …cái thống nhất của Gia Long nhờ cắt đất dâng cho thực dân mà có được đã gây mầm chia cắt đất nước …” (Văn Tạo, “Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 27)

“ …một số người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở miền Nam thời Mỹ-ngụy đã ra sức ca tụng Nguyễn Ánh có công thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc. Luận điểm này nhằm thực hiện âm mưu của chính quyền Sài Gòn chủ trương “lấp sông Bến Hải”, “ Bắc tiến”. Ca tụng Gia Long, phê phán Tây Sơn là “Ngụy triều”, họ đã biện hộ cho việc chia cắt đất nước, tìm mọi cách kéo dài “biên giới Hoa Kỳ” không chỉ đến vĩ tuyến 17 mà đến Mục Nam Quan, phục vụ âm mưu chiến lược của Mỹ dùng Việt Nam làm bàn đạp tấn công Trung Quốc ‘cộng sản”, hòng xóa bỏ hệ thống chủ nghĩa thế giới …”.(Phan Ngọc Liên, “ Một số yêu cầu về phương pháp luận đối với việc dạy học lịch sử thời nhà Nguyễn”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 59)

Thứ nhất, Nguyễn Ngọc Cơ đã nhầm lẫn hoặc cố ý nhầm lẫn khi ông đánh tráo khái niệm bảo thủ lạc hậu và tiến bộ giữa hai chủ thể Tây Sơn và Gia Long. Những năm cuối thế kỷ 18, vương triều Tây Sơn đã không còn ánh hào quang buổi đầu : vua Quang Toản ích kỷ nhỏ nhen, đa nghi đố kỵ, giết người bừa bãi, tàn sát công thần, mù quáng nghe lời nịnh thần dẫn đến nội loạn, trong triều thì rối ren, ngoài biên cương thì quân tướng hoang mang. Nguyễn Thiếp xin từ chức về trí sĩ; Nguyễn Bảo, Lê Chất về hàng Nam triều, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng mang quân về kinh chực đánh nhau. Thật khác xa với tính chất phong trào nông dân khi khởi xướng “ cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Người dân hai miền Nam Bắc trông mong gì ở “yếu tố tiến bộ” ấy ? Trong khi lực lượng Nguyễn Vương mỗi ngày một lớn lên, thu phục được nhân tâm cả nước, trong một tháng lấy trọn cả một vùng đất vua Lê cũ. Sau ngày thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh, khống chế lân bang, trở thành lực đối trọng với Xiêm La trong vùng Đông Nam Á. Đó là một “nhân tố bảo thủ lạc hậu” ư ? Thực ra, từ thế kỷ 18 trở về trước, khi một “lực lượng sản xuất” phá vỡ “quan hệ sản xuất” thì lại tạo ra một “quan hệ sản xuất” mới theo mô hình cũ. Các lãnh tụ nông dân khi giành được chính quyền từ các vua chúa cũ thì lại …lên làm vua, chứ không hình thành nên một chủ nghĩa gì cả vì khi ấy Các Mác hãy còn ở truồng nằm nôi. Có thể gọi vương triều Nguyễn là ít lạc hậu hơn so với các vương triều Lê mạt,  Tây Sơn Quang Toản thì đúng hơn.

Thứ hai, vua Gia Long hoàn toàn không có cắt đất liền hay biển đảo nào cho ngoại bang (!). Hiệp ước Versailles ( 28-11-1787) có các điều khoản nhượng cảng Hội An ( Đà Nẳng) và Côn Đảo cho Pháp, cũng như cho phép các giáo sĩ và thương nhân Pháp được tự do truyền đạo và thương mại trên toàn lãnh thổ Việt Nam để đổi lấy sự viện trợ về mặt quân sự của Pháp. Việt Nam Sử lược [Cận kim thời đại, Nhà Nguyễn, Chương I, Thế Tổ (1802-1819)] viết về sự kiện này như sau:  “Năm 1817, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cửa Đà Nẳng. Quan thuyền trưởng là Bá tước De Kergarion nói rằng Pháp hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẳng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”. Ông Văn Tạo là một cây đa cây đề trong giới Sử học, lẽ nào lại không biết sự thực lịch sử như trên ?    

Thứ ba, việc chia cắt đất nước năm 1954 là một vết đen trong lịch sử Việt Nam, thể hiện mối tương quan và cân bằng quyền lực của các xu thế chính trị trên thế giới mà đạo diễn là các nước lớn, nhưng đại đa số nhân sĩ và người dân miền Nam đều chống lại việc chia cắt ấy. Hãy xem lại trong các thư tịch ai là người đã ký kết vào các văn kiện tủi hổ ấy. Càng lạ hơn với luận điểm miền Nam muốn “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến” bằng bạo lực và “tấn công” Trung quốc cộng sản, xóa bỏ hệ thống chủ nghĩa thế giới. Vương triều Nguyễn có thể không phải là một vương triều minh trị tôi sáng vua hiền, chính thể miền Nam cũng chưa làm gì nhiều cho dân vì phải lo đối phó với chiến tranh, nhưng đừng vì phải tuân thủ quan điểm đường lối chính trị trong nghiên cứu, giảng dạy hoặc vì mặc cảm thất thế của dân tràng an trong bối cảnh lịch sử những năm cuối của thế kỷ 18 mà vẽ ra những điều vô căn cứ, xa rời sự thực như vậy. Đạo đức của người làm sử xưa nay đều không cho phép các quan thái sử viết như vậy, nhất là các nhà mô phạm với thiên chức truyền thụ kiến thức cho đời sau. Miền Nam là cái nôi cho nhà Nguyễn trung hưng phục quốc, càng về phía nam thì lòng dân ủng hộ càng nhiều, nhưng vẫn đề cao, ghi công chống ngoại xâm cho vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Con đường đẹp nhất Sài Gòn mang tên Nguyễn Huệ trong khi Gia Long chỉ là một con đường nhánh khuất phía sau chợ Bến Thành. Đồng tiền có giá trị cao nhất mang hình ảnh Trần Hưng Đạo, kế đến là vua Quang Trung và cuối cùng là Lê Văn Duyệt. Không có tiền giấy nào in hình vua Gia Long cả. Một thái độ công bằng đối với lịch sử. Sự tri ân của hậu thế đối với tiền nhân.

KIẾN HÀO LUẬN BÀN :

Ngày nay một mặt thì “người ta” xuyên tạc, bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen khiến vương triều Nguyễn từ một vương triều có công thống nhất đất nước thành một “tập đoàn phong kiến phản động”; mặt khác thì lại cố công bôi son trét phấn cho Mạc Đăng Dung, một kẻ quyền thần tiếm ngôi giết vua, hãm hại trung thần; một kẻ cố kết bè cánh, bảo vệ địa vị bằng mọi giá kể cả cắt đất dâng nộp cho ngoại bang; một kẻ trói tay khom lưng quỳ gối trước quân tướng giặc phương Bắc hết sức hèn hạ nhưng sau đó quay ra tích cực “nồi da nấu thịt” khiến đất nước suy kiệt, nhân dân phiêu tán. Thậm chí ngày nay, giới Sử học chính thống trong nước còn gọi hành động cắt đất, bán nước của Đăng Dung là khôn khéo, mềm mỏng (?); một nguyên thủ quốc gia quỳ gối trước tướng giặc là sự tính toán trong sách lược ứng phó (!); bỏ quốc hiệu xin nội thuộc nước Tàu là một việc làm tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền (!) (31). Một trò ngụy tạo chữ nghĩa để tránh né sự thật, hay có gì đồng điệu giữa xưa và nay chăng ? Có phải những quan điểm “xét lại” này chỉ bắt đầu xuất hiện khi Nga Sô sụp đổ và Việt Nam rơi vào vòng ảnh hưởng của Tàu, nhất là sau hội nghị Thành Đô 1990 ? Nên không có gì lạ nếu thế hệ trẻ ngày nay mù tịt về cuộc chiến tranh biên giới 6 tỉnh phía Bắc năm 1979, cuộc chiến tranh vệ quốc khốc liệt trong 29 ngày đã lấy đi sinh mạng của hơn ba vạn tử sĩ (32). Hay toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa (nhóm đảo) (33) bị giặc chiếm mất, không hề có một tiết trong sách giáo khoa. Trách nhiệm trước lịch sử thuộc về ai ? Cá nhân hay tập thể nào ?

Thói thường gieo hột nào ăn quả đó, làm sao gieo hạt đắng mà lại mong thu hoạch quả ngọt, hay dạy những điều dối trá lại mong học sinh trở thành người trung thực được. Hậu quả nhỡn tiền là thái độ chán ghét môn sử của học sinh thời nay đã nói lên tất cả : những bài học mang tính chính trị, nghị luận theo quan điểm mác- xít lê- nin- nít khô khan, tham lam, nhồi nhét với những con số khó nhớ. Còn nhớ năm 2013, khi nhà nước Việt Nam công bố nội dung thi tốt nghiệp phổ thông không có môn Sử, học sinh “phấn khởi hồ hởi” xé, vứt toàn bộ bài vở, đề cương ôn thi môn Sử xuống sân trường không thương tiếc. Thật uổng cho một môn học đúng ra là hấp dẫn nhất trong các môn xã hội học, đã bị hoen ố vì mưu đồ của các chính trị gia đội lốt thái sử thời nay.

May mắn thay, Việt Nam vẫn còn đó một bộ phận không nhỏ những người nghiên cứu Sử Việt ở nước ngoài, những nhà nghiên cứu độc lập không lệ thuộc vào “tính chuyên chính” định hướng, những học giả không bị chi phối bởi nhãn quan lập trường giai cấp,  những người còn tâm huyết với lịch sử dựng nước và mở nước của cha ông, những người  đã và đang tiếp tục sự nghiệp của Ngô Sỹ Liên, Trần Trọng Kim …với những nhận xét đánh giá công tâm về Vương triều Nguyễn : công tội phân minh. Nếu chỉ chăm chắm nhìn vào những hạn chế của nhà Nguyễn như cấm đạo hay chính sách bế quan tỏa cảng hoặc thái độ  bảo thủ cố chấp của vua Tự Đức khiến Việt Nam mất đi cơ hội duy tân, nhất là trách nhiệm của các vua triều Nguyễn trong việc để mất nước vào tay thực dân Pháp, mà không nhìn thấy công lao của các chúa và vua nhà Nguyễn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất nước là một thiếu sót rất lớn nếu không muốn nói là bất công. Tệ hơn nữa là việc vận dụng, áp đặt quan điểm riêng của một thiểu số (dù là thiểu số lãnh đạo) vào việc nhận định, đánh giá và phê phán những nhân vật lịch sử, những triều đại phong kiến vốn là một phần của bộ Sử Việt bốn ngàn năm văn hiến. Điều này hoàn toàn đi ngược lại truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.

Nhà văn Nam Bộ Hoàng Lại Giang trong bài viết “Bi kịch của người anh hùng đi mở cõi”, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 294 khi nhắc đến vị anh hùng dân tộc Nguyễn Hoàng đã viết : “ Tôi nghĩ, chúng ta tôn kính các vua Hùng đã có công dựng nước và dựng đền thờ ở thành phố Hồ Chí Minh là phải đạo. Nhưng ai dám chắc đây là những vị vua huyền thoại hay sự thực? Trong khi đó, các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi gấp đôi như ngày nay là một sự thực lịch sử thì chúng ta lại …quên một cách có ý thức …”(34).

Để kết thúc, người viết xin trích một đoạn trong bài “ Nguyễn Hoàng và đất phương Nam” của tác giả Nguyên Hương Nguyễn Cúc, nói lên tấm lòng tri ân của thế hệ hậu sinh đối với bậc tiền nhân mở cõi : “ …tôi mơ ước có một ngày được nhìn thấy tại cố đô Huế Đài kỷ niệm Công chúa Huyền Trân, tại Quy Nhơn Đài Kỷ niệm vua Lê Thánh Tôn, tại Tuy Hòa Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Hoàng, tại Nha Trang Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Tần, tại Phan Rang, Phan Thiết, Sài Gòn, Hà Tiên Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Chu, tại Vĩnh Long Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Trú, tại Sa Đéc, Châu Đốc, An Giang Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Khoát v.v… thì tình quê hương nguồn cội, nghĩa dân tộc đồng bào sẽ thắm thiết cảm động biết bao” . (35)

Người viết tin trong một tương lai không xa, khi các mối tương quan giữa việt Nam và các nước, nhất là với Mỹ và Trung Quốc,  có những thay đổi theo xu hướng tích cực, sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nhìn nhận lại lịch sử Việt Nam cận đại, trong đó có việc đánh giá lại một cách khách quan, khoa học, công bằng về công tội của vương triều Nguyễn./.

(10-2014)     

Tài liệu tham khảo :
     
  1. Hoàng Lê Nhất thống chí, Nhà xuất bản Văn học, 2006
  2. Đại Nam thực lục, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002
  3. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học-Xã hội, 2004
  4. Phủ Biên tạp lục, NXB Khoa học, 1964
  5. Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, NXB Tổng hợp TP HCM, 2005
  6. Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hóa 2006
  7. John Barrow, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, NXB Thế Giới, 2011
  8. Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771-1802, Tạ Chí Đại Trường, Nhà xuất bản Tri Thức, 2012
  9. Lịch sử nhà Nguyễn- một cách tiếp cận mới, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011
  10. Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2008
  11. Các bậc vĩ nhân lập quốc trong lịch sử VN (CBVNLQ), NXB Lao Động, 2013

Ghi chú :

1. Phủ Biên tạp lục, sách đã dẫn, trang 42.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, trang 155
3. CBVNLQ,sđd,  trang 144
4.“Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế và xã hội thế kỷ XVII và XVIII” của Li Tana NXB Trẻ 1999
5. Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 361
6. Xứ Nam Hà thoạt tiên dùng để chỉ vùng đất phía nam sông Gianh nhưng sau này khi các chúa Nguyễn khai hoang mở cõi thì Nam Hà (Indochine) gồm cả phần đất Nam Bộ ngày nay. 
7. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, sđd, trang 107
8. Việt Nam sử lược, sđd, trang 327
9. Phiên Trấn bao gồm cả Củ Chi và Tây Ninh,  còn Trấn Biên gồm cả hai tỉnh Bình  Dương, Bình Phước bây giờ.
10. Rơm rạ ơi ta trở về đây- Sài Gòn tiếp thị Xuân 2008
11. Truyền thuyết dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện Trịnh Kiểm vấn kế Nguyễn Bỉnh Khiêm về việc có nên soán ngôi nhà Lê hay không ? Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không trả lời thẳng mà chỉ ngoảng mặt bảo đầy tớ rằng: năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa, lại bảo tiểu rằng : Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản. Nghe sứ giả về thuật lại, Trịnh Kiểm hiểu ý nên tìm người trong hoàng tộc họ Lê để tôn lên làm vua, chấp nhận thân phận “dưới một người trên vạn người”. Sự thực tấm gương họ Mạc còn sờ sờ ra đó khiến Trịnh Kiểm phải chờn lòng, hơn nữa lòng dân vẫn còn luyến nhớ công đức Thái Tổ, Thánh Tông không dễ quên nên dù gì thì tôn phù chính thống vẫn hay hơn là thay cũ đổi mới. Trong Nam thì Nguyễn Hoàng dần trở thành một lực đối trọng họ Trịnh, ngoài Bắc thì dư đảng họ Mạc vẫn còn nhiều ở hai trấn Kinh Bắc, Hải Dương, lại thêm Minh triều vẫn có ý bênh họ Mạc, chưa công nhận triều Lê trung hưng. Nên Trịnh Kiểm đã khôn ngoan tạm chấp nhận “lùi một bước, trời cao biển rộng” chứ chưa chắc là vì nghe theo lời khuyên của Trạng Trình.

12. Nhiều người vẫn bảo lưu ý kiến cho rằng lãnh tụ phong trào Tây Sơn thuộc giai cấp nông dân. Thực ra xuất thân của Nguyễn Nhạc là lái buôn, nối nghiệp ông nội là Hồ Phi Tiễn và cha là Hồ Phi Phúc. Ba đời đi buôn, gia tư khá giả nên trong nhà lúc nào cũng có nhiều môn khách và gia sư. Theo giáo sư Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử lược, Nguyễn Nhạc phạm tội tiêu lạm công quỹ, một tội bị hình luật triều Nguyễn xử phạt rất nặng nên cũng giống như Lưu Bang nhà Hán, Biện Nhạc không còn đường lùi đành đánh cược với số phận.

13. Cả hai vị chúa Nguyễn là Đông Định Vương và Tân Chính Vương đều bị Nguyễn Huệ bắt sống đem về chùa Kim Chương (Gia Định) hành quyết vào tháng 10 năm Đinh Dậu 1777. Chùa Kim Chương hiện nay không còn, vị trí chùa trước kia ở vào khoảng giữa đường Nguyễn Trãi thuộc quận 1 Sài Gòn, khu đất thuộc Tổng Nha Cảnh Sát cũ, thời Pháp gọi là Gò Ô Ma.    

14. Lối hành quân thần tốc và chiến lược tốc chiến tốc thắng của vua Quang Trung khiến kẻ địch hầu như tê liệt, không có cơ hội để phản công. Kỷ luật quân Tây Sơn rất nghiêm, nên dù đối phương đã mất hết ý chí chiến đấu nhưng sức tiến công vẫn không giảm. Đời sau có người phê phán là quân Tây Sơn “hiếu sát”, điều đó tuy đúng nhưng phàm đã ra trận đối địch thì luôn luôn mục tiêu chiến thắng được đưa lên hàng đầu, đó là lẽ đương nhiên. Điển hình là các trận đánh : thủy chiến Cần Giờ 1782, đại chiến Phú Xuân 1786 và nhất là trận Đầm Mực – Ngọc Hồi 1789.  

15. Cuộc chiến giữa hai anh em Tây Sơn xảy ra từ tháng 2.1787 đến tháng 7.1787. Trong lúc này, vua Lê và Nguyễn Hữu Chỉnh cử mưu sĩ Trần Công Xán vào Nam yết kiến Nguyễn Huệ đòi lại đất Nghệ An. Sợ lộ việc anh em bất hòa, Nguyễn Huệ dìm nước giết chết Trần Công Xán và từ đó đã có ý diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.

16. Nhân vật Đặng Văn Chân này sẽ xuất hiện trong lịch sử một lần nữa vào năm 1788, khi ấy là bộ tướng của Ngô Văn Sở, lãnh đạo thủy binh triệt thoái từ Thăng Long về Tam Điệp ( Ninh Bình) chờ cứu viện.
 
17. Toàn bộ vàng bạc và các vật dụng quý giá thu được trong trận đánh chiếm Phú Xuân năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc đều cho tải về Bắc giao nộp Trịnh Sâm. Mười hai năm sau (1786), vật hoàn cố hương nhưng lần này là trong tay Tây Sơn. Mười lăm năm sau nữa (1801), họ Nguyễn lấy lại Phú Xuân thì vật mới về tay chủ. Câu chuyện sủng phi Thị Huệ làm mình làm mẩy với Trịnh Sâm, quăng hạt ngọc dạ quang trên đầu khăn của chúa Trịnh xuống đất là có nguồn gốc từ số chiến lợi phẩm này.

18. Mùa Đông năm Đinh Mùi (1787), Thăng Long mất vào tay quân Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết chết, vua Lê bỏ kinh đô bôn tẩu. Xứ Bắc Hà chính thức do Tây Sơn cai quản. Khi ấy tại miền Nam, chúa Nguyễn đã về đóng quân tại Long Xuyên kể từ tháng 7 , binh thế ngày càng mạnh. Như vậy về danh nghĩa thì từ tháng 11 năm Đinh Mùi - 1787  đến tháng 8 năm Mậu Thân – 1788 cả nước Việt Nam đều thuộc về ba anh em Tây Sơn nhưng trên thực tế chưa bao giờ Tây Sơn thực sự thống nhất cai quản toàn bộ đất nước. Tháng 8 năm Mậu Thân 1788, khi chúa Nguyễn nhập thành Gia Định, chế độ Tây Sơn tại miền Nam chính thức cáo chung.   

19. Nguyễn Huệ không dám mang đại quân ra Bắc vì vẫn còn e dè, đề phòng lực lượng Tây Sơn Quy Nhơn tiến đánh sau lưng. Ông cũng không dám ở lâu trên đất Bắc, sau khi giết Nhậm bèn cải tổ sắp xếp lại hệ thống quan chức cai trị các trấn rồi gấp rút về Nam. Năm 1792 khi ông mất, Nguyễn Nhạc dẫn đoàn tùy tùng ra viếng nhưng đến đầu địa giới thì bị các tướng Tây Sơn Thuận Hóa cản lại phải trở về. Năm Quý Sửu 1793, Quy Nhơn bị quân chúa Nguyễn vây đánh rát quá, liệu thế chống không nổi, Nguyễn Nhạc xin Quang Toản đem quân Thuận Hóa vào cứu viện. Giải vây xong, Quang Toản chiếm luôn đất Quy Nhơn của vua bác khiến Nguyễn Nhạc tức giận, lâm bệnh nặng và từ trần. Năm Mậu Ngọ 1798, Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc) bất mãn, đem quân chiếm lại thành Quy Nhơn và có ý đầu hàng chúa Nguyễn. Âm mưu bị lộ, Bảo bị Quang Toản bức tử.

20.  Lịch sử nhà Nguyễn, sách đã dẫn, trang 52
21. Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 187
22  CBVNLQ, sđd, trang 181
23. Khi ấy, tổ chức chính quyền và quân sự nhà Lê yếu ớt đến nỗi quân Tây Sơn đi đến đâu là tan rã đến đó, không thể tổ chức nổi một trận đánh cho ra hồn, còn bọn quân tam phủ (kiêu binh), một thời làm mưa làm gió đất kinh kỳ, chỉ nghe phong thanh chiêng trống thúc quân của Tây Sơn là đã vứt giáo bỏ chạy.
24. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 285
25. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 271
26. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 107
27. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 335
28. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 94
29. Đại Nam liệt truyện, sđd, trang 596
30. Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 393
31. Hỏi đáp Lịch sử Việt nam, sđd, trang 106
32. Cuộc chiến biên giới năm 1979 lấy đi sinh mạng hơn ba vạn quân dân sáu tỉnh phía Bắc, gần bốn mươi năm đã trôi qua nhưng nay không có một giòng trong tất cả các sách giáo khoa lịch sử, như chưa hề xảy ra.
33. Một số những bãi đá cạn này, giặc đánh chiếm từ tay bộ đội Hải quânViệt Nam XHCN năm 1988. Phân tích hai sự kiện đánh chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam của Trung Cộng, ta thấy chúng là bậc thầy trong việc lợi dụng khai thác tình thế suy yếu của lân bang để ra tay xâm chiếm đất đai : năm 1974 chúng biết VNCH đã bị Mỹ bỏ rơi không cấp viện và Hạm đội 7 cam kết án binh bất động nên chúng thoải mái lấy số đông áp đảo để chiếm trọn Hoàng Sa. Năm 1988, khối CS Đông Âu đã tan rã, còn Liên Xô đang trên bờ vực sụp đổ, Việt Nam trở thành một nước nhỏ đơn lẽ không liên kết, lợi dụng thời cơ đó Bắc Kinh tung quân chiếm một số đảo do Việt Nam quản lý, trong số đó có đảo Gạc Ma hiện đang xây dựng thành cơ sở quân sự của Trung Cộng. Sau Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, Ấn Độ, giờ đến lượt Việt Nam và Philippine trở thành nạn nhân của bọn bá quyền Bắc Kinh.
34. CBVNLQ, sđd, trang 148

35. CBVNLQ,sđd,  trang 151