Monday, November 21, 2011

QUỐC NẠN

Lathiews

Tham nhũng trong bộ máy cầm quyền Việt Nam và tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Cộng là hai đề tài thuộc loại “ phạm húy ” mà các biên tập viên của hơn 700 tờ báo quốc doanh hiện nay ít dám đề cập tới. Còn độc giả của các báo mạng ngoài “định hướng” thì lại không phải là số đông vì người đọc báo lề trái phải hội đủ một số điều kiện, nhất là kỹ thuật “leo tường”.

Có lần một tờ báo quốc doanh đưa tin từ một hãng truyền thông độc lập, thống kê hơn 40% người dân được phỏng vấn, cho là lĩnh vực cảnh sát giao thông đứng đầu về tệ tham nhũng. Ngày hôm sau bản tin bị gỡ bỏ và biên tập viên mất chức. Còn vụ những người yêu nước ở Hà Nội bị bắt giam vì dám tuần hành chống Trung Quốc thì ai ai cũng biết, dù lý do nhà cầm quyền đưa ra là “tụ tập đông người” trái phép (?), một lý do hết sức mơ hồ, tùy tiện và vi hiến.       

Kể từ “ đổi mới ” đến nay, những cụm từ  như “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giai cấp”, “ai thắng ai”… xem chừng cũng phai lợt trên mặt trận tuyên truyền chính thống, mà các cán bộ hình như cũng hơi ngượng mồm khi đăng đàn phát biểu, bởi vì sự tương phản hình ảnh của các diễn giả béo tốt nọng thịt và quần chúng công nông lao động tự nó cũng nói lên nhiều điều, khiến cho những lời lẽ hô hào không còn có sức thuyết phục.

Trở lại với đề tài tham nhũng, những năm 70, 80 thế kỷ trước, ở phía Nam có một câu vè dân gian rất phổ biến :
Công an , thuế vụ, kiểm lâm
Trong ba thằng đó, nên đâm thằng nào…
Kính thưa quý vị đồng bào
Trong ba thằng đó, thằng nào cũng (đáng) đâm.
Thực ra những kẻ đứng đường, đứng trạm đó cũng phải bỏ công một nắng hai sương (!), dầm mưa dãi gió … mới có tiền mãi lộ, mà tiền đó cũng đâu phải “ăn” hết một mình, còn phải cống lên trên chớ bộ, nhưng vì tiền đó móc trực tiếp từ hầu bao người dân nên người ta xót, sinh ra thù oán; đó là đồng tiền tham nhũng ở cấp vi mô, nôm na gọi là “tôm tép”.

Còn có nhiều, rất nhiều những phương thức tham nhũng ở cấp vĩ mô, tinh vi hoành tráng hơn gấp ngàn lần, gây ra tác hại rất lớn, vừa tạo ra bất công xã hội vừa gây khủng hoảng mất lòng tin. Đạo đức suy đồi; văn hóa , giáo dục, y tế… xuống cấp trầm trọng, thái độ vô cảm trong cộng đồng, các mối quan hệ trong gia đình và xã hội bị chi phối bởi đồng tiền. Tham nhũng bây giờ là chuyện thường, không tham nhũng mới lạ.

  1. Đầu tư công:
Đầu tư công lấy tiền từ đâu ? Từ phát hành công trái, vay ngân hàng trong ngoài nước, các tổ chức tín dụng quốc tế hay từ phân bổ ngân sách… xét cho cùng cũng là từ tiền đóng góp của người dân bởi vì nguồn chi trả cũng trích từ ngân sách, nhà nước chỉ là người đại diện cho dân chớ nhà nước đâu phải là một tổ chức kinh tế. Với cơ chế hiện nay, nhà nước vừa là chủ đầu tư, vừa thi công, quản lý, giám sát giống như một người vừa là cầu thủ vừa là trọng tài.

Nhiều người vẫn còn nhớ phong trào xây dựng các nhà máy xi măng lò đứng với thiết bị và công nghệ lạc hậu của Trung Quốc năm nào gây ô nhiểm môi trường khủng khiếp, hay việc phân bổ xây dựng các nhà máy đường duy ý chí theo cơ chế mặt trận, cục bộ bất kể việc nhà máy phải gắn kết với điều kiện thổ nhưỡng, vùng nguyên liệu địa phương dẫn đến việc phá sản, di dời hàng loạt nhà máy sau đó. Những đổ vỡ, thất bại đầu tư công gây thiệt hại cho ngân sách quốc gia đó cũng không quy trách nhiệm cho cá nhân nào, vị phó TT kiêm bộ trưởng Nông nghiệp NCT thời đó nay cũng đã về hưu yên lành rồi.

Vụ việc Vinashin phá sản vẫn còn tính thời sự nóng hổi về đầu tư công: ‘quả đấm thép’ về công nghiệp đóng tàu cả nước đã vung tay đầu tư tràn lan bất kể hiệu quả, bất kể chỉ đạo từ cấp trên hay tham mưu từ cấp dưới. Đầu tư vung vít nhờ vốn vay thành hình do phát hành trái phiếu và vốn vay các ngân hàng trong ngoài nước do chính phủ bảo lãnh, bây giờ nhiều ý kiến cho rằng chỉ còn một cách khắc phục hậu quả giùm cho Vinashin là nhà nước in thêm tiền và ‘bí mật’ bơm cho các ngân hàng để trả nợ thay ( 7 ) . 

Đầu tháng 11/2011, khi đài BBC loan tin tập đoàn Vinashin và 21 công ty con bị chủ nợ khởi kiện tại tòa án ở London, nội dung liên quan đến việc Vinashin “xù” khoản nợ 600 triệu USD đã đến hạn trả nợ đợt 1 năm ngoái thì một quan chức cấp cao của chính phủ VN thản nhiên tuyên bố: chuyện Vinashin bị kiện không bất ngờ vì trong kinh doanh nợ nần tranh chấp là bình thường. Vâng, trong kinh doanh nợ nần là chuyện bình thường nhưng giựt nợ thì không bình thường chút nào, nhất là ở tầm cỡ quốc gia như Vinashin.

Hai năm trước (2009) lại xảy ra hiện tượng các địa phương đua nhau xây dựng cảng biển, bất chấp sự không đồng bộ về kết nối giao thông hạ tầng và dịch vụ hậu cần phù hợp mà điển hình là cảng nước sâu Thị Vãi – Cái Mép, đã không giải cứu được cho các cảng cũ nội thành đang chật chội quá tải, mà lại trở thành gánh nặng thêm cho nợ công không biết đến bao giờ mới thu hồi được vốn .

Câu chuyện thời sự đầu tư công hiện nay là hiệu quả kinh tế của dự án đường cao tốc Sài Gòn – Long Thành – Dầu Giây, mà theo khảo sát của một chuyên gia kinh tế ( 1 ) thì chi phí làm đường của Việt Nam đắt gấp ba lần Mỹ ( 18 triệu USD / 1 km so với 5,6 triệu) , chuyện thật như đùa này đã đẩy tấn tuồng bi hài kịch nhận hối lộ hai triệu đô của Huỳnh Ngọc Sĩ – Đại lộ Đông Tây lùi vào sau sân khấu. 

Đầu tư công trong lãnh vực giao thông với cơ chế quản lý giám sát lỏng lẻo hiện là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng tha hồ nảy nở. Mặc dù gọi là đầu tư công nhưng không phải toàn bộ nguồn vốn đều có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thường chỉ 30-40 phần trăm tổng mức đầu tư, gọi là vốn mồi hay vốn đối ứng, phần còn lại từ các nguồn khác như huy động trái phiếu, vay ODA, huy động vốn trong ngoài nước v.v..

Chính vì hình thức vay vốn nước ngoài trả chậm nhiều năm về sau, lãi suất thấp hoặc không lãi để đầu tư làm hạ tầng khiến người dân ngộ nhận, mơ hồ về tính hiệu quả và sự lãng phí, tốn kém của các công trình. Phải, tham nhũng đầu tư công ăn vào tiền vay mượn, đội chi phí lên nhiều lần thì cũng đâu có móc túi của  bà con đồng nào như bọn đứng đường, đứng trạm kia đâu ?  Nhưng xin nhớ cho rằng vay tức là … mượn, mượn tức có ngày phải trả, trả bằng ngân sách tức tiền thuế của dân, đời cha chưa trả thì đời con, đời cháu è cổ ra trả kỳ hết. Dù có bới móc ông bà lên chửi cũng phải trả chớ không có chuyện quỵt đâu nhé.

Theo cựu Bộ trưởng Trần Xuân Giá, nếu ngưng khởi công toàn bộ dự án đầu tư công mới kể từ 2012 thì còn phải mất tới 8 năm nữa mới đủ ngân sách để hoàn tất các dự án đầu tư công đang dở dang ( 2 ). Hiện mỗi năm, ngân sách phải trích từ 14-16 % để chi trả nợ, bằng toàn bộ số tiền chi cho giáo dục, gấp đôi số tiền chi cho y tế, hai chục lần chi cho khoa học công nghệ ( 3 ). Cũng theo ông Giá, điều đáng lo không phải là nợ công vượt ngưỡng cho phép (hiện là 57% GDP) mà là khả năng trả nợ của VN cực kỳ thấp.

Trước đây có một dạo báo chí làm ầm ỉ về các khoản chung chi gọi là tiêu cực phí trong ngành XD, chiếm tới 30%  chi phí công trình (lobby dự thầu hàng chục cửa, lót tay ban bệ giám sát nghiệm thu công đoạn, thủ tục giải ngân thiên la địa võng…) nhưng cuối cùng đâu cũng vào đó. Chắc có lẽ mọi người tự an ủi mình: cái nước VN ta nó thế. Hay: cứ để cho mấy ‘thằng’ mập nó làm, còn hơn cho mấy ‘thằng’ ốm nhảy vào ăn còn bạo hơn ?

Lại có lần các nhà ‘cải cách’ kêu gọi bãi bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, để các quan chức Bộ chỉ chuyên tâm làm công việc quản lý nhà nước, thực hiện chức năng hành pháp đúng nghĩa, chứ không sa đà ôm đồm, thò tay quá sâu vào lĩnh vực bên dưới. Hề ! Nếu vậy thì lấy đâu sắm xe ngàn trâu, thẻ hội viên Golf Club vài chục ngàn đô, biệt thự hoành tráng trong khu đô thị cao cấp, đi du hí mua sắm nước ngoài…

Theo thông tin từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương  ( 2 ) thì các dự án đầu tư công năm 2012 mà các tỉnh, bộ ngành trình lên chính phủ lên tới 300 tỷ USD, tức gấp 3 lần quy mô GDP hiện nay ( 105 tỷ USD). Nghĩa là cái bánh đầu tư công cũng còn… thơm lắm, bất chấp chủ trương siết chặt chống lạm phát của nhà nước VN; bất chấp bài học ‘kích cầu’ chống suy thoái ba năm trước, đã điên cuồng in tiền như in …giấy, bơm vào lưu thông và đầu tư công khiến lạm phát tăng vọt đến nay còn để lại hậu quả.

Nhà nước còn quản nhiều ‘quả đấm thép’ khác như các tập đoàn, tổng công ty dầu khí, ngân hàng, viễn thông, điện lực, hàng không, hàng hải, than & khoáng sản… những doanh nghiệp nhà nước được xem như con cưng của chế độ, được hưởng tất cả mọi ưu đãi về  phân bổ vốn, lương, giá, thuế, tín dụng, tiếp cận thông tin, hoạch định chính sách  … nhưng cũng là nơi mà các nhóm lợi ích ( interest groups ) gồm quan chức – tư bản đỏ liên kết thành một mạng lưới chặt chẽ, tinh vi dưới cái ô ‘ kinh tế quốc doanh chủ đạo’ hoặc ‘ kinh tế thị trường nhưng có định hướng XHCN’.

Cũng bởi cái “ định hướng ” phi luật này mà chính phủ đã chỉ đạo cho Điện lực Việt Nam hạch toán các khoản lỗ kinh doanh vào trong … giá thành. Một sự ưu ái quá mức, vô tiền khoán hậu, nghĩa là người tiêu thụ điện cả nước phải gánh chịu hậu quả quản lý sản xuất kinh doanh tồi của mấy ông quan nhiệt tình nhưng ngu dốt. Trong khi tất cả những ai làm kinh tế đều biết sự nghiệt ngã của cán bộ thuế khi kiểm tra giám sát báo cáo cáo thuế của các doanh nghiệp, nhất là khoản chi phí giá thành, càng xuất toán càng nhiều càng tốt dù có những khoản chi phí được xem là hợp lý nhưng không hợp lệ.

Rõ ràng sân chơi kinh tế của VN hiện không thể gọi là công bằng được nếu nhà nước cứ bảo hộ mãi các doanh nghiệp nhà nước kiểu như cái “ ô ” để các nhóm lợi ích mặc tình thao túng làm cho bất công xã hội trong thu nhập và đời sống cứ tăng thêm mãi, khoản cách  giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân trong nước ngày càng xa vời vợi, và khoản  cách GDP giữa VN và các nước trong vùng Đông Nam Á cũng vậy.
 
Chúng ta không quá ngoa ngôn, cay nghiệt như Nguyễn Ngọc Già khi nói “…vì tôi quá ức cho tôi, cho người dân đang ở trong nước, bởi lẽ chắc chắn, những người dân cô đơn, trơ trọi, lẽ loi và yếu đuối tại đất nước bi thương này, sẽ tiếp tục đưa đầu ra gánh cái món nợ khốn nạn của bọn bất lương mang danh nghĩa ‘ kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo…” khi nói về sự phá sản tất yếu của “Vinasink” (9).Nhưng cũng thật chua chát khi nhìn hai hình ảnh thời sự tương phản nhau như nước với lửa:  sân Golf & khu nghỉ dưỡng cao cấp cho giới doanh nhân quan chức và trẻ con lem luốc mò cua bắt ốc trong mùa lũ ở miền Tây. Nếu hàng chục ngàn ngôi mộ liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn có thể cất lên tiếng nói của mình thì họ sẽ nói gì ? 



 Ảnh 1 : Khu sân Golf & nghĩ dưỡng cao cấp Hà Tây


Ảnh 2: Lam lũ trẻ con miền tây

  1. Khai thác tài nguyên :

Ngày trước những đứa trẻ lười học thường hay bị mắng ‘mày sau này chỉ có nước cạp đất mà ăn !’. Nay nhờ cạp đất mà khối kẻ ăn nên làm ra, chỉ sợ không có đất để cạp. Đất đây phải hiểu rộng ra là tài nguyên nằm dưới lòng đất ở dạng nguyên khai (thô) hàng triệu năm do thiên nhiên tạo lập chớ không phải là sản phẩm của một con người hay chế độ nào. Tài nguyên khoáng sản bóc tách đi rồi thì…thôi, không bao giờ tái tạo lại được nữa.

Khi Việt Nam cho Trung Quốc đổ thiết bị, cơ giới, nhân công người Hoa xuống Tây Nguyên khai thác mỏ nhôm Lâm Đồng, cả một khu vực rộng hàng ngàn hecta bị san bằng thành bình địa không còn một ngọn cây cọng cỏ, còn hơn vó ngựa quân Nguyên năm nào, biết bao nhiêu nhân sĩ trí thức đã làm thỉnh nguyện thư can gián, thậm chí lập ra cả trang web để đăng những ý kiến phản biện của những tấm lòng yêu nước.

Cảm động nhất là ý kiến thiết tha đề nghị nhà nước hãy xem tài nguyên kia như của để dành cho con cháu, khi nào đất nước tiến bộ đủ khả năng khai thác chế biến thì hãy làm , chớ đừng xuất thô, bán non như thế này, vừa hủy hoại môi trường vừa ảnh hưởng cuộc sống hàng triệu người, vừa làm phức tạp tình hình an ninh quốc phòng. Còn hiệu quả kinh tế thì đã quá rõ: từ lỗ tới lỗ chớ đừng mong huề vốn.

Trong cơ cấu xây dựng giá thành quặng nhôm sơ tuyển để so sánh với giá bán, để tăng thêm sức thuyết phục trước Quốc Hội, người ta cố tình ém đi chi phí vận chuyển. Giờ thì cả nước mới ngớ ra: không có cây cầu, con đường nào chịu nổi tải trọng của các xe chở quặng từ nhà máy sơ chế xuống đồng bằng, ra cảng biển chở về Tàu. Nếu bỏ tiền ra làm đường, làm cầu riêng thì biết bao giờ TKV mới thu hồi vốn ? Nên giờ nhà nước Việt Nam chọn giải pháp nâng cấp cầu đường hiện hữu bằng ngân sách quốc gia, nghĩa là người dân phải bỏ tiền ra làm đường cho xe chở quặng chạy chung với xe dân dụng. Đồng thời miễn toàn bộ thuế suất (bằng 0%) cho alumina xuất khẩu sang Tàu. 

Tại mỏ than Mạo Khê – Đông Triều- Quảng Ninh, từ ngày 13 đến 17/2/2010 tức 30 Tết đến mùng 4 Tết Canh Dần, những người có trách nhiệm đã ‘thả lỏng’ cho than tặc tha hồ điều xe cộ máy móc vào khai trường hoành hành suốt ngày đêm, chở đi 28 ngàn tấn than nguyên khai, tương đương 19.500 tấn than sạch trị giá gần 17 tỷ VNĐ. Vậy mà tại tòa, tất cả đều được hưởng án treo (!), chỉ có một con chốt thí lãnh tù 5 năm, nhưng chắc chỉ thọ án 3 năm là cùng ( 4 ). Hề ! Tất cả đều ngầm biết số than đó chở đi đâu về đâu , bất chấp hàng rào kiểm tra giám sát dầy đặc ở cửa khẩu hai nước. 



Ảnh 3 : Quặng tập kết bên kia biên giới cao như núi

Mỏ sắt Quý Xa của Lào Cai và mỏ sắt Nà Lũng Cao Bằng là hai điểm nóng về khai thác lậu và vận chuyển quặng bất hợp pháp ( 5 ) sang bên kia biên giới, làm chảy máu tài nguyên quốc gia trầm trọng và đẩy tình trạng tham ô móc ngoặc lên thành quốc nạn, bất chấp lời kêu gọi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang yêu cầu đừng tiếp tục xuất quặng thô (6). ‘ Ông Trương Tấn Sang nói gì thì mặc ông nói, chuyện xuất khẩu quặng là việc của mấy quan Lào Cai và của mấy quan các tỉnh khác, miễn là cái túi ‘ ba gang’ của họ căng phồng thêm vì theo cách họ và gia đình họ tính toán thì…hiện còn vơi lắm’ ( 5 ) .

Bất bình vì những đoàn xe ‘ quặng tặc ’ chở quá tải trọng cày xới nát đường, gây khói bụi và ồn ào kinh khiếp bất kể ngày đêm, cũng như thái độ lơ là của chính quyền, ngày 17/9/2011 người dân vùng biên Lào Cai đổ chướng ngại vật ra đường cản xe chở quặng. Trước thái độ hống hách, vẩy súng đe dọa của một viên quan ‘ bảo tiêu’ tự xưng Công an, người dân phẩn nộ hè nhau …đốt luôn chiếc xe ô tô của ông này ( 6 ). 


Ảnh 4 : Xe ‘bảo tiêu’ bị đốt cháy

Theo báo cáo của Sở Công thương Lào Cai “… từ đầu năm 2011 đến nay ngành Công thương và ngành Giao thông vận tải đã thẩm định và phê duyệt 28 phương án vận chuyển khoáng sản cho 21 đơn vị, với tổng khối lượng là 1.379.224 tấn quặng, bao gồm quặng sắt, quặng mangan, stenđồng, xỉ đuôi tuyển đồng… được khai thác tại tỉnh Lào Cai và các tỉnh trong khu vực để xuất khẩu sang Trung Quốc. Ngoài ra còn cho phép vận chuyển một số loại khoáng sản cho các cơ sở chế biến sâu trong nước. Đến hết tháng 8/2011, các đơn vị đã vận chuyển được gần 1 triệu tấn khoáng sản cho các cơ sở chế biến trong nước và xuất khẩu sang nước bạn Trung Quốc để đổi lấy than cốc, than mỡ phục vụ nhiệm vụ sản xuất công nghiệp trong nước. Dự kiến, trong năm 2011 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh qua cửa khẩu Quốc tế Lào Cai sẽ đạt khoảng 1,7 tỷ USD ”. (10)
Đọc báo cáo thật phấn khởi hồ hởi nhưng chỉ cần làm một bài toán nho nhỏ, số chênh lệch tải trọng giữa thực chở và trên sổ sách làm thủ tục hải quan ( 40 tấn so với 25 tấn ) của một chuyến xe là đủ biết lượng giá trị thất thoát mất đi là bao nhiêu. Tiền đó đương nhiên là bọn đầu nậu không ăn được một mình, mà dẫu có Bao Công điều tra chắc cũng chịu thua bởi quy trình khai thác, vận chuyển và xuất quặng (lậu) qua biên giới đang vận hành trơn tru như một cổ máy đang vào guồng…

Cũng giống như sự liên minh ma quỷ giữa lâm tặc-lâm trường-kiểm lâm khiến rừng Tây Nguyên cứ thu hẹp dần rồi mất hẳn, những người có trách nhiệm trước việc thất thoát quặng luôn luôn có một lý do ‘khách quan’ là địa bàn rộng lực lượng mỏng không thể kiểm tra giám sát hết, dù những đoàn xe chở quặng chạy ầm ầm trên đường suốt ngày đêm, giữa thanh thiên bạch nhật qua những thị trấn vùng biên như chốn không người.

Nguồn tài nguyên không phải là vô tận. Điển hình là các mỏ than ở Quảng Ninh. Nếu cứ hăm hở xuất than sang Trung Quốc ồ ạt như hiện nay thì ngày mà nhà máy nhiệt điện Uông Bí phải nhập than từ Úc chắc cũng không còn xa. Giống như gỗ rừng: từ chỗ là quốc gia xuất khẩu gỗ, nay Việt Nam phải nhập trên 80% gỗ nguyên liệu từ các nước. Tài nguyên cạn kiệt nhưng không ai phải chịu trách nhiệm , chỉ làm giàu cho một thiểu số người.       

  1. Đất đai :

“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”, chỉ mười bốn con chữ mà gây ra ‘bể oan cừu’ suốt mấy chục năm nay. Một sản phẩm của nhà nước XHCN Việt Nam, độc nhất vô nhị trên thế giới ! Bằng khoán đất XHCN (sổ đỏ) của người dân ghi rất rõ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nên nếu có nhu cầu phát triển sân golf, khu du lịch, khu nghĩ dưỡng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư cao cấp, khu thương mại … nhà cầm quyền chỉ cần ra một quyết định thu hồi quyền sử dụng đất là xong.

Bất kể đất đó do ông bà tổ tiên khai phá thành thục, để lại cho con cháu; bất kể đất đó có giấy tờ mua bán hợp pháp từ đời Tây, đời Ngô Đình Diệm; bất kể đất đó do tích cóp tằn tiện hằng chục năm trời ăn mắm mút giòi mới mua được; bất kể cuộc sống mới của hàng triệu người có đất bị thu hồi không bao giờ tái tạo được như cũ. Kẻ chịu thiệt nhất chính là giai cấp nông dân, lực lượng chính của cuộc ‘cách mạng’ vừa qua.
 
Kể từ khi chính quyền trung ương phân cấp quản lý cho địa phương, trong đó có lĩnh vực quản lý đất đai thì các nhóm lợi ích quyền-tiền, liên minh quan chức-doanh nghiệp lại càng phát triển như nấm mọc sau mưa, bởi vì mối lợi do đất đai mang lại quá lớn, bỏ ra bạc chục thu lại bạc trăm mà lại được nấp dưới cái ô chính đáng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo mỹ quan đô thị.

Nguyên Thứ trưởng TN&MT Đặng Hùng Võ, chuyên gia của World Bank ( WB ), phân tích  “ cơ chế quản lý đất đai ở Việt Nam bao hàm nguy cơ tham những cực kỳ lớn. Đó là cơ chế được mô tả một cách dễ hiểu là nhà nước bằng một quyết định hành chánh lấy đất của một hay một số người giao cho người khác, tiền đất đền bù và tiền thu từ việc giao đất cũng do nhà nước tự quyết định ” ( 8 ).

Thực ra chuyện chuyển đổi công năng sử dụng đất đai theo hướng hợp lý, vì lợi ích cộng đồng thì ở bất cứ nước nào cũng có vì đó là xu hướng tất yếu của một xã hội phát triển, tuy nhiên không thể nhân danh lợi ích chung để gây thiệt hại đến quyền lợi của một thiểu số. Đó là công bằng xã hội. Nghịch lý rất rõ ràng là kẻ đi mua lại có quyền ấn định giá mua (rẻ như bèo) , còn người (bị cưỡng) bán thì lại không có quyền ra giá bán.

Ảnh 5 : Một dự án khu dân cư bị bỏ hoang

Tham nhũng, bất công trong quản lý đất đai đẻ ra bất ổn xã hội, đào sâu hố phân cách giàu nghèo, làm mất lòng tin và đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Làn sóng người ‘dân oan’ kéo nhau đi khiếu kiện ngày càng đông, áo sứt vai quần hai ba miếng vá giữa chốn thị thành có lẽ làm mất thể diện quốc gia nên là một trong nhiều lý do khiến nhà nước ra nghị định cấm khiếu kiện đông người. Đó không phải là một giải pháp vì dân. Tham nhũng gây ra bất công dẫn đến biểu tình, thay vì giải quyết triệt để nguồn gốc gây ra tham nhũng thì lại cấm… biểu tình. Đó là đơn thuốc của một ông bác sĩ tồi.

Luật doanh nghiệp dù không công khai thừa nhận sai lầm trong cải tạo công thương nghiệp trước kia nhưng cũng đã giúp cởi trói khi công nhận quyền tư hữu của cá nhân và tập thể trong sản xuất kinh doanh, còn Luật đất đai vẫn như vòng kim cô siết chặt nông dân và những người có đất nông nghiệp ngay chính trên mảnh đất của họ. Thực ra chỉ cần bỏ đi 14 từ ngữ oái oăm kia đi, và thay bằng cụm từ như sau : ‘nhà nước công nhận và bảo hộ quyền tư hữu đất đai chính đáng của người dân’ thì những mâu thuẫn, bất công sẽ biến mất gần hết và theo đó tình trạng tham nhũng đất đai cũng không còn.

Nhưng đòi hỏi điều đó có khác gì bắt loài chó sói phải ăn chay !

( 11/2011 ) 

  1. http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/10/lam-duong-viet-nam-dat-gap-3-lan-my/
  2. http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/su-bat-luc-cua-trung-uong-su-vo-hieu.html#more
  3. http://danluan.org/node/10476
  4. http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2011/09/cưu-giam-doc-than-mao-khe-duoc-tra-tu-do-tai-toa/
  5.  
  6. http://boxitvn.blogspot.com/2011/10/quang-quy-tiep-tuc-chay-tu-lao-cai-sang.html#more
  7. http://danluan.org/node/8592#comment-44256
  8. http://boxitvn.blogspot.com/2011/06/can-nguyen-tham-nhung-at-ai-o-viet-nam.html#more
  9. http://danluan.org/node/10550
  10. http://boxitvn.blogspot.com/2011/09/chay-mau-quang-sang-trung-quoc-xe-pha/html

Wednesday, August 3, 2011

ĐIỂM 0 MÔN SỬ : NỒI CHÁO HEO


LATHIEWS

Điểm thi đại học môn Sử vừa qua có kết quả thấp “ không thể tưởng”,  trên phạm vi cả nước chứ không riêng địa phương nào. Trường Đại Học ( ĐH) Tiền Giang, hơn 98 % thí sinh có điểm thi dưới trung bình nghĩa là cứ 100 thí sinh thì có 98 người đạt điểm kém, và trong số 98 người điểm kém đó thì có 19 người điểm 0 ! Trường ĐH Quảng Nam, trong số hơn 900 thí sinh dự thi khối C, chỉ có 9 thí sinh đạt điểm trung bình trở lên, tỷ lệ là 1% !! Tại Sài Gòn, ĐH Văn Hóa là trường có số lượng tuyển khối C (Văn, Sử, Địa) khá nhiều, tuy nhiên chỉ có 3,6 % thí sinh đạt điểm trung bình môn Sử, 201 thí sinh có điểm từ 0-1 !!! Tại trường ĐH Sư Phạm Đà Nẵng, nơi đào tạo ra những người thầy dạy Sử, tổng số bài thi môn Sử dưới điểm trung bình là 2448 bài , chiếm 99,23 % bài thi môn Sử của các thí sinh khối C, trong số đó có 477 bài …0 điểm .
( Số liệu lấy lại từ trang mạng cand.com ngày 1/8/2011)

Nói tóm lại, cứ 100 thí sinh thì hơn 98 thí sinh …từ chết tới bị thương. Mà đây là những con người chọn Sử làm chuyên ngành, nói gì đến những thí sinh khối A, B hoặc D thì kiến thức về Sử còn thê thảm tới cở nào.

Ngài Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục nói gì ?

Trích trong báo Tuổi Trẻ  ngày 30/7/2011 :

“Theo tôi , trong một kỳ thi như kỳ thi đại học vừa qua, có hàng ngàn điểm 0 là bình thường. Đây là kỳ thi cấp quốc gia, là thi tuyển, với mục đích phân loại để làm rõ đâu là người giỏi người khá, đâu là người yếu kém. Vì vậy qua quá trình thi, lộ ra những học sinh kém là bình thường…” .

Phải, thi tuyển có mục đích khác thi tốt nghiệp. Thi tốt nghiệp là kiểm tra trình độ, chỉ cần đạt mức độ trung bình là đậu, còn thi tuyển là chọn lọc lấy người giỏi theo kiểu hình tháp. Nhưng trong một kỳ thi (môn Sử ) mà hơn 90% trường hợp dưới điểm trung bình thì không thể gọi là bình thường được, thưa ngài Bộ trưởng . Nói thế nghe có vẽ hơi … không bình thường. Giống (nếu) như ngài Bộ trưởng Y tế mà nói : tình trạng ba bệnh nhân nằm một giường là bình thường thì cũng không bình thường chút nào.
Mà thực trạng y tế và giáo dục nước ta đang bình thường kiểu như vậy.

Trích theo báo Dân Trí ngày 29/7/2011 :

“… điểm Lịch sử thấp là vấn đề của thời đại. Khi tiếng nói của ngành khoa học lịch sử trong cuộc sống hôm nay không nhiều, khi cơ hội tìm việc làm của những người giỏi sử không nhiều, môn sử thất thế là thực tế không chỉ ở Việt Nam, ở châu Á. Đó là chuyện của thời đại, của thế hệ này, do cách mạng khoa học công nghệ, do sự biến đổi, đòi hỏi của thị trường lao động…”

Thì ra theo ngài Bộ trưởng thì điểm lịch sử thấp là tội của “ thằng” thời đại . Chính “ nó ” là nguyên nhân, là thủ phạm gây ra cảnh học sinh chán ghét học sử; thầy cô giáo miễn cưởng, mất hứng thú dạy sử; sách giáo khoa sử trở nên khô khan khó nhớ; đề thi sử trở nên khó hiểu, xa rời thực tế; thí sinh môn sử trở nên lười nhác, không cố gắng làm bài thi nên kết quả là điểm thi môn sử quá tệ như trên. Những bậc thông tuệ soạn sách Lịch sử, những vị Tiến Sĩ Thạc sĩ soạn đề thi, những cán bộ quản lý lãnh đạo cấp Cục, Vụ, Bộ ngành Giáo dục và nhất là ông Bộ trưởng hoàn toàn không có lỗi gì cả trong sự kiện này. Xin dư luận trong ngoài nước hãy hiểu cho như vậy !!!. 


Thí sinh : người trong cuộc nói gì ?
( Trích từ báo Tuổi Trẻ ngày thứ hai 1/8/2011 )

“ Tôi từng học ban C và tôi thấy môn lịch sử thật sự đã đến đỉnh của thời kỳ suy thoái. Tôi từng rất chán ghét môn lịch sử, đặc biệt vào năm lớp 12. Một quyển tài liệu dày cộm được đưa ra và chúng tôi phải thuộc lòng hết cuốn này khi thi tốt nghiệp. Tại sao trong mỗi sự kiện lại phải thuộc tới mức độ ngày này giờ này làm gì, bắn rơi bao nhiêu máy bay, bao nhiêu quân ta bao nhiêu quân địch…
Đừng trách chúng tôi mà đây là hệ quả tất yếu của việc dạy và học. Vì vậy, nếu cho rằng hàng ngàn điểm 0 là bình thường thì tôi nghĩ không lâu nữa môn sử sẽ không bao giờ có thể là một môn học có ý nghĩa  như chính giá trị của nó…”.

“ Tôi là một học sinh vừa tốt nghiệp lớp 12. Tuy yêu thích sử nhưng tôi cũng không chọn thi vào ban C, bởi đơn giản vì cách học sử hiện nay quá nhàm chán và đầy những con số  trong khi những điều quan trọng khác của lịch sử như lịch sử của địa phương mình, vẻ đẹp của các giá trị văn hóa qua từng thời kỳ…lại ít được nhắc đến…”.

“ Từ hồi phổ thông tới giờ, sử là môn tôi thấy khó “nuốt” nhất. Vì nội dung đã dài mà trong tiết học không có lấy chút gì gọi là hứng thú. Tính ra tôi đã học qua tám giáo viên dạy sử nhưng đều chung một cách dạy : đọc bài trước ở nhà , lên lớp đọc lại lần nữa , ghi tóm tắt rồi về nhà học thuộc lòng. Học thuộc lòng thì thuộc đấy, nhưng mà thi cử xong xuôi rồi thì chẳng nhớ chút gì …”.

Nhận xét của các bậc phụ huynh
Theo báo Dân Trí online ngày 1/8/2011

…tôi muốn sau này con có công việc ổn định thì ngay từ bây giờ phải định hướng cho con học những môn thi khối A ( Toán Lý Hóa) hoặc khối D ( Văn Toán Ngoại Ngữ) vì khối này thi được nhiều trường đại học. Với các môn xã hội như Lịch sử thì ngàn đời cũng chỉ thế, với những sự kiện đó nhân vật đó, có ai bịa thêm lịch sử đâu (!) mà phải học nhiều. Cho nên đến những lúc thi học kỳ, con học lịch sử tôi ôn tập cùng nó cho nó thi xong rồi thôi  chứ bắt nó nghiền ngẫm làm gì cho đau đầu vì đó cũng chỉ là môn phụ…

Các vị giáo sư Sử và nhà nghiên cứu về Sử nói gì ?
( Báo Tuổi Trẻ ngày 31/7/2011)

…tôi không đồng tình với việc đá quả bóng sang chân người khác. Việc học sinh không thích học sử là vấn đề mà những nhà sử học, những thầy cô giáo dạy lịch sử chúng tôi trăn trở và bàn rất nhiều từ những năm trước đây chứ không phải bây giờ. Hội khoa học lịch sử Việt Nam cũng từng có những kiến nghị lên các cấp báo động về tình trạng không thích học sử của giới trẻ nhưng những kiến nghị đều rơi vào im lặng …
Giáo sư Vũ Dương Ninh

…lẽ ra trước tình hình dạy và học sử ngày càng tuột dốc,  người đứng đầu ngành giáo dục cần phải có những quyết sách cần thiết để môn sử được đối xử đúng với tầm quan trọng của nó trong nhà trường. Nếu người đứng đầu ngành GD hiện nay cho rằng môn ngoại ngữ, tin học là cần thiết hơn trong xu thế hội nhập  nên việc môn sử bị coi nhẹ  thì đó là một sai lầm…
Giảng viên Lại Đức Thụ

…sách sử ở Việt Nam hiện nay được viết nặng về ý chí mà nhẹ về khoa học, vì vậy nó khô khan không logic, khó học khó nhớ. Trong khi môn Lịch sử là môn học rất sinh động, hấp dẫn. Điều đó chứng minh qua một số cuốn sách sử của các nhà nghiên cứu  hiện đang bán rất chạy, nhiều người vẫn sống được bằng cách bán sách về lịch sử. Ai nói dân mình, học sinh mình không thích đọc sử…
Nhà sử học Nguyễn Đắc Xuân

…không thể nói điểm thi môn sử thấp và ngành sử không thu hút được nhiều người là một hiện tượng chung của nhiều nước trên thế giới. Tôi đã tham quan nền giáo dục của nhiều nước trên thế giới  và thấy rằng học sinh các nước Âu Mỹ không chán sử và điểm sử của họ không thấp như ở nước ta…
Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần

Nội dung chương trình học : nhồi nhét, xơ cứng và lạc hậu
Trích  Tuổi Trẻ Online 28/7/2011

…học sinh lớp 12 hiện tại chỉ học 1,5 tiết sử /tuần nhưng cả năm học, học sinh phải ‘ngốn” hết chương trình lịch sử thế giới từ 1945 đến nay,  chương trình lịch sử Việt nam từ 1919 đến nay. Trong đó có quá nhiều sự kiện đi liền với ngày, tháng, năm buộc học sinh phải nhớ hết. Quá tải nên học sinh phải “bơi” trong mớ kiến thức hổn độn, học trước quên sau dẫn đến tình trạng chán học…
Thầy Phạm Văn Roanh

…phải nói là nội dung môn sử quá nặng khiến cho cả thầy và trò đều rất khó khăn để hoàn thành chương trình. Từ khi cải cách , chương trình môn sử càng nặng hơn vì thêm vào những nội dung sau 1991 mà lại cắt giãm bớt tiết học. Thời gian lên lớp quá ít chỉ đủ cho giáo viên và học sinh chạy đuổi theo cho kịp chương trình, còn đâu để hướng dẫn thêm cho học sinh ? …
Cô Nguyễn Ái Hằng

 …chương trình nặng nề, khô khan, lặp lại (giống như bậc THCS, chỉ có mở rộng thêm ) là vấn đề tồn tại lâu nay. Gần đây Bộ Giáo dục có hướng dẫn giảm tải , bằng cách giáo viên chỉ dạy kiến thức trọng tâm, còn lại để học sinh tự học. Nhưng vì học sinh đang phải học quá nhiều môn nên không có thời gian cho việc tự học…
Một giáo viên trung học

Đề thi : mơ hồ, đánh đố và không sát trình độ số đông

Theo nhận xét của Tiến sĩ  Lê Vinh Quốc ( bài đăng trên báo Tuổi Trẻ Online  ngày 1/8/2011) kết quả điểm thi thấp bất thường cũng có nguyên nhân từ nội dung đề thi có quá nhiều sai sót về kỹ thuật đánh giá đo lường kiến thức sử của học sinh, cũng như yêu cầu trình độ khái quát, đánh giá, phân tích sự kiện vượt quá khả năng đa số học sinh cấp phổ thông. Nghĩa là người soạn đề đã đưa ra yêu cầu quá cao so với năng lực thí sinh. Cụ thể như câu 1 là một luận đề có thể được giải đáp bằng cả một luận án tiến sĩ ! Câu 2 lại yêu cầu so sánh phân tích những điểm khác nhau giữa hai văn kiện lịch sử mà chỉ có các cán bộ nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể phân tích được. Câu 3 là một câu đánh đố mà đa số đều nhầm lẫn dụng ý của người ra đề, câu 4a cũng gây ra lầm lẫn cho người đọc do cách dùng từ mơ hồ, đồng thời yêu cầu phải nêu ra những con số ngày tháng diễn ra các sự kiện rất khó nhớ. Cuối cùng là câu 4b , thí sinh cũng phải học thuộc lòng và ghi nhớ máy móc như câu 4a , theo Tiến sĩ thì để đánh giá trình độ “ biết’ của học sinh một cách chính xác mà không đòi hỏi các em học thuộc lòng , giáo chức ở các nước tiên tiến không dùng những câu hỏi như trên mà thiết kế một loạt câu trắc nghiệm về các sự kiện các em cần biết.

Tóm lại đề thi có thể đạt yêu cầu là khẳng định trình độ thông thái của người ra đề nhưng không đạt yêu cầu nếu xem đề thi là công cụ để đo lường thành quả dạy và học. Khi công cụ bị trục trặc thì kết quả đo lường sẽ không chính xác.
   
Lịch sử bị định hướng bởi chính trị

Hầu hết chương trình lịch sử lớp 12 chỉ xoay quanh những sự kiện từ khi có đảng và những chiến thắng do đảng lãnh đạo. Trong khi lịch sử trung đại xuyên suốt mấy ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương bắc của ông cha ta chỉ chiếm một thời lượng khiêm tốn trong chương trình các lớp dưới. Nếu gọi một trang sử có chiều dài là một trăm năm thì quyển quốc sử Việt Nam dày bốn mươi trang, và lịch sử đảng chỉ chiếm hơn nửa trang giấy. Cho nên các sự kiện, các nhân vật lịch sử của mấy ngàn năm mở nước và giữ nước bị các thế hệ đời sau lãng quên không có gì lạ. Điều này cũng lặp lại trong môn văn.


Dạy và học môn Sử trong nhà trường miền Nam trước 1975 :

Thi Tú Tài, môn sử là một môn thi bắt buộc, chỉ có khác hệ số điểm tùy theo ban A ( vạn vật) , ban B ( Toán) hay ban C ( văn chương). Hầu hết học sinh đều có thể nhắc lại tiểu sử công trạng của các vị tiền nhân thời Đinh Lê Lý Trần hay những chiến công oanh liệt của các danh nhân được đặt tên cho những con đường như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…còn bây giờ đi trên những con đường mang tên liệt sĩ chống Pháp và chống Mỹ , mấy ai biết được họ là ai ?

Thời ấy trên TV có chương trình giáo dục – giải trí “ Đố vui để học ” giúp học sinh bổ sung kiến thức một cách hứng thú, mà trong đó có rất nhiều những sự kiện lịch sử. Một lần nghe qua nhớ tới …già. Trường trung học Trịnh Hoài Đức có rất nhiều giáo sư Sử - Địa giỏi , một trong số đó là thầy H. dạy sử hay nổi tiếng, một phần nhờ phương pháp giảng dạy sinh động lôi cuốn của thầy. Phong trào Hướng Đạo , một phong trào giáo dục thanh thiếu niên cũng rất chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử cha ông bằng những bài hát gọi là “ sử ca” như Bạch đằng giang , Bóng cờ lau …một xã hội “ phồn vinh giả tạo ” nhưng học sử không giả tạo chút nào !

Hiện nay việc biên soạn nội dung sách giáo khoa môn sử do Bộ Giáo Dục trực tiếp chỉ đạo và thống nhất sử dụng trên phạm vi cả nước, nghĩa là người dùng không có sự lựa chọn khác. Điểm thi môn Sử thấp “ thê thảm” năm nay là hệ quả của những bất hợp lý trong nội dung chương trình khiến học sinh chán ghét và những sai sót trong đề thi cũng như đáp án ; xin đừng vội lên án học sinh hay người thầy cô giảng dạy môn Sử mà hãy xem xét trách nhiệm của những người lãnh đạo ngành GD, của những cái đầu ở cấp vĩ mô đã định hướng nội dung, chương trình giãng dạy lẫn cách ra đề thi. Nếu xem môn sử là một môn học nhân bản, dạy làm người thì hãy phê phán những quan điểm duy lý lệch lạc chứ đừng đổ tại sức hấp dẫn của toán, tin học; hãy xem lại nội dung sách giáo khoa trước khi chê bai phương pháp giãng dạy của thầy cô (thầy cô môn sử khổ lắm rồi ) và khả năng cảm thụ của học sinh;  cũng giống như hãy xem lại chất lượng nguyên liệu thực phẩm trước khi khen chê người chế biến nấu nướng, hay hãy lên án bàn tay cầm súng chứ đừng lên án cây súng. Xem ra hiện tượng suy thoái của môn sử không phải ngày một ngày hai mà đã âm ỉ lâu lắm rồi, và cũng không phải chỉ riêng năm nay…

--------------------------------------------------------------------------------------------------------
3/8/2011

Monday, July 25, 2011

ĐẠI VỆ CHÍ DỊ TÂN BIÊN

Kiến Hào

Lại nói về nước Vệ từ khi giang san thu về một mối nhờ sự hỗ trợ “chí tình” của Tề quốc thì trở thành một nước phên giậu cho lân bang; tất cả các việc quốc gia đại sự từ ngoại giao, kinh tế, quốc phòng đến bổ dụng quan lại cấp cao…nhất nhất đều có “tham khảo” qua ý kiến của triều đình nước Tề. Thực ra cũng chẳng phải vì mối tình hữu hảo thắm thiết gì mà trước đó nước Tề hy sinh tài vật lực để giúp nước Vệ thôn tính nước Quắc là một nước máu mủ anh em, mà vì sự ích lợi của bản thân nước Tề do khuếch trương tầm ảnh hưởng và những mối lợi kinh tế do chiến thắng xương máu của nước Vệ đem lại. Từ đó con em nước Vệ đều được dạy phải yêu mến trân trọng tình hữu nghị giữa hai nước và quê hương của nước Vệ chính là … nước Tề. Đấu Tả, một nhà thơ nhờ tài văn chương (tụng ca) mà lên tới chức Đông Các Đại học sĩ hàm chánh nhất phẩm cũng có cả một chuỗi những bài thơ ca ngợi tình hữu nghị Tề - Vệ đời đời thắm thiết. Hàng hóa vật dụng, văn hóa phẩm Tề tràn ngập thị trường nước Vệ đến nổi trẻ con lên năm có thể kể vanh vách chuyện về những nhân vật lịch sử và huyền thoại nước Tề một cách hứng thú, còn bọn hương cống, tú tài thì mù tịt sử Vệ.  

***

Theo thuyết “quy luật vận động biện chứng” của Giáo Mác tiên sinh ở Tây Vực thì phàm mọi sự ở đời không đứng yên một chỗ mà luôn luôn vận động không ngừng nên đến đời Vệ U Vương thì hai nước phát sinh mâu thuẩn vì tranh chấp mấy hòn đảo ngoài biển. Nguyên do trong lúc khói lửa chiến tranh thời tiên đế, để tranh thủ nước Tề chi viện vũ khí lương thực đánh Quắc nên quan Tể tướng đầu triều nước Vệ mới thảo tờ công văn hứa giao cho Tề mấy hòn đảo đó nếu chiếm được nước Quắc. Tờ công văn hết sức quan trọng đó bị ém nhẹm suốt mấy chục năm ròng vì vua quan nước Vệ sợ bị mang tiếng là bán nước. Trong hai hòn đảo đó, một bị thủy binh Tề chiếm được trong lúc Quắc đang kiệt quệ (nhưng Tề cũng hao binh tổn tướng vì sự kháng cự kiên cường của thủy binh Quắc) , một bị Tề đánh úp trong lúc thủy binh Vệ không phòng bị.
Mặc dù là đảo hoang, không có người sinh sống nhưng mấy hòn đảo đó có vị trí chiến lược hết sức quan trọng vì chắn ngang thủy lộ giao thương các nước trong vùng, lại tiềm tàng mấy cái mỏ hỏa khí tối cần thiết cho việc cung cấp chất đốt. Mất đảo nhưng triều đình nước Vệ vẫn yên tâm vì nghĩ rằng Tề đã thỏa mãn được tham vọng rồi thì sẽ không kiếm chuyện gây hấn nữa, so với những mối lợi do chiếm được nước Quắc đem lại thì mất vài ba cái hòn đảo đó có hề hấn gì. Nhưng mọi sự ở đời không đứng yên một chỗ nên sau khi đã cũng cố được cơ ngơi vững chắc trên mấy hòn đảo đó rồi thì nước Tề ra một bố cáo rằng, phàm nếu đảo là của Tề rồi thì mấy vùng nước bao quanh đảo ấy cũng là của …Tề luôn chớ sao (!) ; vậy là mấy chiếc thuyền nan đánh cá của ngư dân nước Vệ trở thành kẻ xâm phạm trên chính vùng biển kiếm sống của cha ông họ từ bao đời.
Dần dần những kẻ vì miếng cơm manh áo cố sống cố chết bám biển thưa thớt hẳn đi vì thủy binh Tề bắt bớ đánh đập hết sức dã man, lại còn đòi tiền chuộc mạng mới tha về. Lão ngư Mai Phụng Lưu ba lần bị bắt như thế trở thành kẻ tay trắng, nợ nần không biết lấy gì trả nổi, đội sớ kêu cứu lên quan sở tại nước Vệ cũng không thấy hồi âm. Có mấy vị sĩ phu nặng tình với đất nước cũng lên tiếng phản đối hành động của Tề liền bị công sai nước Vệ bắt giam vì tội “ xâm phạm an ninh và trất tự công cộng”. Bọn sinh đồ, văn thi sĩ, trí thức yêu nước ở kẻ chợ bất bình, hợp nhau xuống phố tuần hành liền bị bọn công sai chặn bắt trói như gà lợn, có người còn bị đạp vào mặt. Thật là “hèn với giặc ác với dân”. Các quan bộ Công, bộ Hình còn thảo công văn sức đi các nơi, lịnh cho các quan địa phương không được bàn luận chuyện nước Tề cướp biển ở chốn công đường, cùng là theo dõi chặt chẽ bọn yêu nước chống Tề trong dân chúng, hễ thấy có biểu hiện manh động là bắt giam liền.

***

Có một cậu ấm con quan Thị lang tình cờ mục sở thị cảnh công sai trấn áp dã man những người yêu nước giữa đường phố kinh thành, lòng lấy làm ngạc nhiên và bất bình vì thái độ hung hăng xem dân như kẻ thù của chúng, mới về nhà hỏi cha cho rõ sự tình :
- Tại sao lũ công sai của cha lại ra tay đánh bắt những người dân yêu nước tuần hành biểu lộ tinh thần yêu nước chống Tề cướp đất đai biển đảo của Vệ? Chẳng lẽ yêu nước là có tội hay sao ?
- Đó là chủ trương và mệnh lệnh của triều đình buộc ta phải thi hành, nào phải đâu là ý riêng của ta. Thực ra đó là một việc hết sức phức tạp và nhạy cảm. Triều đình đang ở vào thế khó giữa hai phải chọn một: một là hy sinh một phần đất đai biên cương, biển đảo để đổi lấy sự ủng hộ của Tề và hai là kiên quyết bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ nghĩa là chống lại chủ trương giành đảo lấn biển của Tề quốc, ra sức bảo vệ ngư dân bám ngư trường. Sau khi cân nhắc lợi hại thì triều đình ta đi đến quyết định chọn phương án liên minh hợp tác toàn diện với Tề bỏ qua tranh chấp lãnh hải, để đổi lấy cam kết của Tề ủng hộ triều đình Vệ U Vương ta hết lòng. Tề là một nước lớn, mất đi sự ủng hộ của Tề là mất đi chỗ dựa, triều đình Vệ ta sẽ sụp đổ, triều đình mà sụp đổ thì sự nghiệp gia sản ta cũng tiêu vong, thậm chí không biết có còn đất để đặt chân đứng hay không. Nên nay dù có mất đi một hai hòn đảo cho Tề nhưng đổi lại ta có được sự bảo đảm cho sự trường tồn của triều đình và phe cánh, vẫn hay hơn là dung dưỡng bọn chống Tề như nuôi dưỡng mầm họa, chính vì thế mà triều đình ta phải lịnh cho đám công sai dập tắt những cuộc tuần hành của bọn chúng như dập đám lửa nhỏ ngừa cháy lan.
- Như vậy vô hình trung chúng ta đứng về phía đối nghịch với nhân dân, với những người yêu nước Vệ hay sao? Chỉ vì cốt giữ lấy lợi ích của triều đình này và vài chục gia tộc mà chúng ta nỡ khom lưng uốn gối và trấn áp sự phản kháng chính đáng của người dân Vệ?
- Nhiệm vụ của con chỉ là cố công học hành cho tốt, hầu mong sau này đổ đạt được bổ dụng làm quan chức vinh thân phì gia, lấy vợ đẹp, đẻ con xinh, nhà cao cửa rộng thế là thành đạt trong cõi nhân sinh, còn nghĩ chi đến chuyện quốc sự cho mệt người lại thiệt thân. Nông dân lo cày cấy sớm chiều, công nhân lo tích cực tăng ca, thợ thủ công lo rèn nghề cho tinh xảo, kẻ buôn bán lo buôn may bán đắt… còn chuyện nước hãy để triều đình lo. Thế là thiên hạ thái bình còn mong gì hơn.   
- Nhưng chính nhà trường cũng có dạy chúng con : “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” , chẳng lẽ những người có học, biết chút ít chữ nghĩa thánh hiền lại khoanh tay đứng nhìn kẻ cướp ngang nhiên xâm phạm đất nước Vệ?
- Câu đó không sai, nhưng không còn phù hợp với ngày nay. Nhà trường nay chỉ dạy cho con kiếm sống chứ không dạy cho con cách sống, dạy cho con cách tồn tại chứ không dạy cho con đạo làm người, dạy cho con trung thành với triều đình chứ không trung thành với tổ quốc nhân dân. Đất nước là đất nước chung, còn chức vị bổng lộc là của riêng; đất nước thì trừu tượng còn bổng lộc thì cụ thể. Mất đất thì chỉ thiệt chung, còn mất chức vụ bổng lộc thì ta mất tất cả. Nên bọn ta thà quy phục Tề, chịu mang tiếng Lê Chiêu Thống mãi quốc cầu vinh mà còn giữ được vinh hoa phú quý đầu tư tâm huyết cả đời; còn hơn theo bọn nhân sĩ lỡ thời, trí thức rách việc mà chuốc lấy danh hão …
Viết đến đây thì vì quá đau lòng , tôi không thể tiếp tục được nữa , mong bạn đọc lượng thứ
( 7- 2011 )

Wednesday, June 1, 2011

Wait and See

LATHIEWS




 Báo mạng VNexpress.net đưa tin :
“ Lúc 5giờ 05 phút ngày 26 tháng 5.2011 vừa qua, nhóm 3 tàu hải giám của Trung Quốc bất ngờ xuất hiện để tấn công tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 của Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam ( PViệt Nam) đang làm việc tại lô 148 trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Tọa độ tàu Việt Nam bị tấn công ở vị trí 12 độ 48 phút 25 giây bắc và 111 độ 26 phút 48 giây đông. Các tàu hải giám Trung Quốc đã chạy thẳng vào khu vực khảo sát của tàu Bình Minh 02 mà không hề có cảnh báo. Ông Đỗ Văn Hậu, Phó TGĐ PViệt Nam cho biết tàu của Việt Nam đã đã liên lạc nhưng không được phía tàu Trung Quốc đáp lại. Nhóm tàu hải giám này sau đó chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp nhằm cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 2. Vị trí mà 3 tàu hải giám Trung Quốc phá hoại thiết bị của tàu Bình Minh 02 chỉ cách mũi Đại Lãnh ( Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không liên quan đến bất cứ tranh chấp nào. Các tàu Trung Quốc sau đó liên tiếp có hành động uy hiếp tàu Bình Minh 02 và thông báo là tàu Việt Nam đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Sau nhiều tiếng quấy nhiễu, nhóm 3 tàu hải giám Trung Quốc mới chịu rút khỏi khu vực khảo sát của tàu Bình Minh 02 lúc 9 giờ sáng cùng ngày. Trong khi đó , tàu Bình Minh 02 và các tàu bảo vệ đã phải dừng công việc trong cả ngày 26 tháng 5 và thu lại các thiết bị đã hỏng để sửa chữa .Tới 6 giờ sáng ngày hôm sau, tàu Bình Minh 02 tiếp tục trở lại hoạt động…”.
Vậy là Trung Quốc đã lấn tới thêm một bước nữa, vừa hù dọa Việt Nam vừa nắm gân ASEAN và Mỹ, trong chiến dịch vơ Biển Đông vào hải phận nước mình ; một hành động hiếu chiến pha lẫn sự trơ tráo vô liêm sỉ, vừa phản bội đồng minh XHCN trung thành , vừa chứng tỏ tinh thần tráo trở nói một đằng làm một nẻo , đúng bản chất sô - vanh của dân tộc Đại Hán. Thế là thằng ăn cướp đang la làng, vừa kêu gọi các nước nhỏ ASEAN kiềm chế để “ không làm phức tạp thêm tình hình” , vừa ra sức khuấy đục nước Biển Đông để giành giật ưu thế trên các bàn đàm phán song phương và đa phương ; kéo những vụ xô xát tranh chấp từ hải phận quốc tế vô vùng vùng thềm lục địa không- thể- tranh- cải- chủ- quyền của Việt Nam và Philipine, mục đích gây ngộ nhận trên trường quốc tế.
Bây giờ dù cho “ai đó” có muốn cũng không thể biện minh được trước những hành động thể hiện xu hướng bá quyền nước lớn của Trung Quốc. Chân lý muôn đời vẫn là chân lý, sự giả trá ngụy tạo mê hoặc chỉ có tác dụng nhất thời, và bây giờ thì cái mặt nạ “16 chữ vàng và 4 tốt”, cái lá chắn của những mưu đồ đen tối xảo quyệt lâu nay đã rơi xuống rồi, may thay rơi xuống trước khi Việt Nam trở thành Nội Mông, Tân Cương hay  Tây Tạng.
Lâu nay nhà nước ta vẫn dạy dân ngu hãy kiềm chế, hãy tỉnh táo đừng để tình cảm lấn át lý trí , hãy giữ cái đầu lạnh để đối phó, đừng để các “thế lực thù địch” lợi dụng để gây âm mưu chia rẽ làm suy yếu nội bộ phe XHCN (!). Thậm chí còn cấm đoán người dân biểu lộ tình cảm yêu nước chống giặc ngoại xâm. Nhưng đến nước này, nếu ai còn biện minh, lấp liếm bênh vực cho những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc thì đúng là phản dân hại nước, tự đứng về phía đối nghịch với nhân dân, với Tổ quốc Việt Nam. Như những lần Trung Quốc xây dựng căn cứ Hoàng Sa, sân bay Trường Sa, thiết lập các cơ sở hành chính , lắp đặt giàn khoan dầu, đâm chìm tàu cá, bắt giam ngư dân, tàu bè và phương tiện đòi tiền chuộc (gọi tránh là nộp phạt), đơn phương tuyên bố cấm biển trong vùng tranh chấp, tổ chức tour du lịch, công bố đường lưởi bò…trước đây, kịch bản thấy trước là bà Nguyễn thị Phương Nga , người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao Việt Nam sẽ lại lải nhải Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý và bề dày lịch sử để khẳng định chủ quyền không thể tranh cải về hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa… Chán thật, đến nỗi có người nghĩ rằng hình như có một sự sắp xếp trước hay sao ấy, la thì em cứ la mà lấn thì anh cứ lấn đi, chả là em phải phản đối tượng trưng thế để trấn an mấy thằng thối mồm trong ngoài nước đó thôi. Khuyến khích ngư dân cứ việc ra Biển Đông đánh cá bất chấp lệnh cấm của Trung Quốc, nhưng khi ngư dân bị đâm chìm tàu, bị bắt bớ đánh đập, giam người và phương tiện, bị đòi tiền chuộc (thật vô lý) thì nhà cầm quyền Việt Nam ở đâu ? Sao không thấy lên tiếng bênh vực hay hổ trợ đền bù thiệt hại cho người dân, nói gì tới cho tàu bảo vệ ? Hay như vụ gây hấn kể trên, ba tàu hải giám (giám cái gì trên vùng biển của người ta ?) Trung Quốc uy hiếp cắt cáp của tàu Việt Nam, quần tới quần lui suốt ba tiếng đồng hồ mà quân đội CHXHCN Việt Nam im hơi lặng tiếng, có thấy bóng dáng chiếc tàu Hải quân hay chiếc trực thăng vũ trang nào đâu? Nên nhớ hải (quân) cảng Cam Ranh và căn cứ không quân Bình Định, Ninh Thuận cách đó đâu có bao xa. Mới hay “kiềm chế” là tốt, là tránh được những hành vi nóng vội đáng tiếc của cả hai bên, nhưng nếu chỉ một bên kiềm chế, còn một bên cứ ỷ thế lấn tới, lấn tới hết dịp này đến dịp khác như tằm ăn lá dâu thì kiềm chế chỉ có nghĩa là nhu nhược mà thôi. Còn nếu thêm sự trấn áp những tinh thần phản kháng yêu nước thì phải xem lại chính quyền đó là của ai, do ai và vì ai.
**
Không ai tin rồi Trung Quốc sẽ dừng lại ở chỗ gây rối , gây phiền nhiễu cỡ vậy rồi thôi. Đó chỉ là một bước trong kế hoạch lấn tới nhiều bước, bắt đầu bằng xâm chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực năm 1974. Chỉ nội trong năm nay (2011) , Trung Quốc sẽ có Hàng không mẫu hạm để tuần tra làm chủ biển Đông, người ta tự hỏi tiếp theo rồi Trung Nam Hải sẽ diễn trò gì nữa đây ? Mấy trò đâm chìm ghe ngư dân, bắt giam đòi tiền chuộc giống cướp biển Somali …nhàm quá rồi, có lẽ nên chuyển sang mấy vở mới hơn như đánh sập giàn khoan dầu của Việt Nam hay phong tỏa quần đảo Trường Sa bằng sức mạnh quân sự… Đột nhiên thấy thương cho Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải: chỉ vì dám tỏ lòng yêu nước, chống quân Trung Quốc xâm lược mà lâm vào vòng lao lý, sao thấy giống vụ án “ gân gà” của Dương Tu thời Tam quốc quá. Sự thật hiển nhiên dù rất trái lòng nhiều lãnh đạo đương thời của Việt Nam rằng : Trung Quốc sẽ không dừng lại ở những màn khiêu khích, nắn gân mà sẽ dấn tới nhiều bước hung hãn hơn nữa, cho đến lúc có sự can thiệp mạnh mẽ từ một cường quốc khác, một điều cũng rất khó xử cho lãnh đạo Việt Nam hiện nay vì lịch sử chính thống sẽ rẽ sang hướng khác ngay sau đó. Xin nói thêm là sự can thiệp (nếu có) đó cũng chỉ vì chính sách bành trướng nước lớn của Trung Quốc đụng chạm đến quyền lợi của quốc gia họ chớ không phải để bênh vực Việt Nam hay các nước trong khối ASEAN đâu, xin ai đó cũng đừng ngây thơ mong mỏi.
Nhớ lại trước 1975 , làm gì có chiếc tàu lạ nào dám léo hánh dưới vĩ tuyến 17 mà đòi chủ quyền; ngay cả trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, dù đã có lời cam kết của Mỹ không can thiệp vào trận đánh chiếm Hoàng Sa của Việt NamCH ( một hành động chơi đểu sau lưng, bán đứng bạn bè) , hải quân Trung Cộng cũng phải đổ máu, trả bằng một giá rất đắt mới đạt được mục tiêu. Nhìn sang các nước láng giềng, hải quân Philipine hay Malaysia chưa chắc mạnh hơn Trung Quốc nhưng vẫn đối đầu sòng phẳng bởi họ biết lẽ phải thuộc về họ, họ cương quyết bảo vệ lãnh thổ với sự đồng tình ủng hộ của toàn thể nhân dân. Bạn có hả hê không khi đọc tin hải quân Malaysia dùng trực thăng vũ trang và tàu khu trục đuổi bọn Ngư chính chạy dài. Không biết ngày nào sẽ đến lượt Hải quân Việt Nam làm được như vậy. Sự thật ASEAN là một liên minh lỏng lẻo nên Trung Quốc mới được dịp hoành hành ngang ngược, chứ nếu có một quy chế hợp tác chặt chẽ nhất là về mặt quân sự thì chưa chắc tàu Trung Quốc dám lộng hành như vậy. Phải nhìn nhận chính sách bẻ đủa từng chiếc của Trung Quốc rất có hiệu quả: uy hiếp Việt Nam, dọa nạt Philipine, ve vãn Indonesia, hù dọa Malaysia, tranh thủ Lào, mua chuộc Campuchia, quàng vai bá cổ Miến Điện…thật giống chiến quốc sách nước Tần thi hành để gồm thâu lục quốc Ngụy Hàn Triệu Sở Yên Tề năm xưa.
***
Những ngày này, dư luận trong nước chia ra làm hai quan điểm khác biệt. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên mừng vì bên cạnh những hệ lụy như tự ái dân tộc bị tổn thương thì cũng có cái lợi là nhiều người đã sáng mắt ra, xác định rõ kẻ thù là ai, cũng như từ nay không còn cái gọi là “tàu lạ” một cách hèn hạ nữa. Hành động gây hấn của Trung Quốc có tác dụng ngược là đánh động lòng yêu nước của đa số người dân Việt Nam dù còn khác biệt chính kiến, bằng chứng là thật hiếm khi báo chí lề phải và lề trái lại đồng chung quan điểm như vầy, nó cho thấy truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta thật mãnh liệt. Đồng thời cũng khiến cho chánh quyền Việt Nam lâm vào tình thế khó xử. Khó xử bởi vì nếu ém nhẹm hoặc cố tình hạ thấp tầm quan trọng của những hành động ngang ngược của “ đàn anh ” vì động cơ lợi ích phe nhóm, vì sự tồn vong của chế độ, của lý tưởng chính trị thì lại vô tình phải đứng về phía đối nghịch với tổ quốc nhân dân Việt Nam. Còn nếu lên tiếng phản đối để xoa dịu sự phẩn nộ của dư luận trong nước thì cũng phải “kiềm chế” với mức độ liều lượng vừa phải , vừa mang tính cảnh báo vừa không để các “thế lực thù địch” lợi dụng gây chia rẽ (!).
Quan điểm thứ hai là đừng vội mừng vì chắc chắn sẽ có những nổ lực dàn xếp ở cấp cao hai nước để làm êm thắm vụ việc và trấn an dư luận rằng đó chỉ là một tai nạn nho nhỏ, thực tế Trung Quốc vẫn là một đồng minh chiến lược môi hở răng lạnh, và những lợi ích trong hợp tác kinh tế song phương giữa hai nước là hết sức to lớn không gì thay thế được. Nếu thế thì những lời la toáng như bị tốc váy của em Phương Nga vừa qua chỉ là một đòn gió (hư chiêu) có tính toán, cốt ý cảnh báo ông anh đừng hành động quá đáng, gây ‘khó xử” cho em lắm, đồng thời phân trần với mấy nhà “ đấu tranh dân chủ ”: đấy nhá, xem đấy nhá , tớ đã lên tiếng bảo vệ chủ quyền đất nước rồi đấy nhá, chúng mày đừng viện cớ mà mắng chúng ông là bán nước ôm chân quan thầy , nhá !
Điểm chung duy nhất là dù ở đâu, thuộc xu hướng chính trị nào, tất cả đều ý thức được rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ ý đồ gây hấn xâm phạm lãnh hải các nước trong đó có Việt Nam, chừng nào chưa đạt được mục tiêu chiếm 80% diện tích biển Đông (đường lưởi bò), thâu tóm tài nguyên khoáng sản, thủy hải sản cũng như khống chế con đường giao thông hàng hải chiến lược Nam Á- Đông Nam Á- Bắc Á. Bảo Trung Quốc ngồi lại thương thảo hòa bình chẳng khác nào bảo con bạc khát nước rời chiếu bạc. Chỉ có con đường duy nhất đúng là phải tự lực tự cường, dựa vào sức mạnh toàn dân, lấy sự đoàn kết toàn dân làm hậu thuẩn trên mặt trận đấu tranh chính trị ngoại giao đa phương và song phương để giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ. Một lần nữa, cơ hội hòa hợp hòa giải dân tộc lại đến, nhưng nó lại đi như những lần trước nữa chăng ?  
Có thể ví tâm lý yêu nước của người dân Việt Nam giống như chiếc lò xo, còn những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc giống như lực nén lên chiếc lò so đó: càng nén chặt thì lực phản càng mạnh , đến một lúc nào đó thì sự quân bình sẽ bị phá vỡ, khi đó thì chiếc lò so sẽ bung lên .Vậy thì , hãy nén chặt nữa vào, hãy đè ép xuống thật mạnh nữa đi hởi những kẻ bá quyền cậy mạnh và bọn tay sai kia ơi. 

01.06.2011

*****

Bài đọc thêm (Báo Pháp Luật TPHCM)

Phép thử của Trung Quốc và giải pháp của Việt Nam

Trung Quốc đang làm phép thử đối với đường chữ U (đường lưỡi bò). Nếu gặp phải sự phản ứng kiên quyết của Việt Nam và ASEAN thì họ sẽ tính toán khác. Nếu Việt Nam im lặng và ASEAN giữ thái độ đứng ngoài, Trung Quốc sẽ đương nhiên ghi điểm.
>Mức độ gây hấn của TQ tăng lên

Dưới đây là bài phân tích của nhóm tác giả Lê Vĩnh Trương, Nguyễn Đức Hùng, Dư Văn Toán, Nguyễn Trọng Bình, Phạm Thu Xuân (Quỹ Nghiên cứu biển Đông), trước hành động Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, cắt cáp địa chấn của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam ngày 26/5.
Trong suốt những năm qua, các tàu ngư chính của Trung Quốc đã liên tục bắt giữ, đánh đập và đòi tiền chuộc đối với ngư dân Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng với sự kiện ngày 26/5, Trung Quốc đã leo thang từ bắt giữ tàu thuyền ngư nghiệp của Việt Nam tại các vùng nước xa bờ đến tấn công tàu khảo sát địa chấn trong chính vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vào ngày 26/5, Trung Quốc đã ngang nhiên tấn công tàu Bình Minh 02 của Việt Nam ngay tại vùng biển của Việt Nam (12 độ 48’25” vĩ bắc, 111 độ 26’48” kinh đông), trong vòng 200 hải lý kể từ đường cơ sở, tức hoàn toàn không dính dáng gì đến các tranh chấp ngoài xa hơn là Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự kiện này diễn ra ngay sau chuyến thăm các nước Singapore, Indonesia và Philippines (từ 15/5) của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt. Trước đó, ngay trước chuyến thăm Mỹ của Tham mưu trưởng Trung Quốc Trần Bỉnh Đức (16/5), Trung Quốc cũng đã đơn phương ban bố lệnh cấm đánh bắt cá trong biển Đông có hiệu lực từ ngày 16/5 đến ngày 1/8/2011, trên vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền…
Thái độ ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp những gì mà chính phủ Trung Quốc đã cùng ký kết và cam kết tại các hội nghị từ trước đến nay, bất chấp văn minh ứng xử của cộng đồng các quốc gia văn hiến, cho thấy một số tín hiệu phát đi của giới làm chính sách Trung Quốc.
Vị trí tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp địa chấn. Ảnh: Bộ Ngoại giao.
Thứ nhất, giới quân đội có tinh thần dân tộc cực đoan Trung Quốc đang cố chứng tỏ với ASEAN và cộng đồng thế giới rằng Trung Quốc sẽ sẵn sàng phủ nhận các văn bản mà chính mình đã ký kết và kiên trì cách tiến xuống vùng biển Đông bằng chính sách vừa lấn vừa đàm. Những sự kiện nêu trên cho thấy các văn bản ký kết với các nước ASEAN có ít giá trị ràng buộc.
Chính sách tàm thực (tằm ăn dâu), vừa lấn vừa đàm, tuyên bố trước, hù dọa kèm và giành giật sau, đã được Trung Quốc thực hiện lâu dài từ nhiều năm. Từ giai đoạn sử liệu Trung Quốc nhìn nhận cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam cho đến lúc tuyên bố mập mờ cả vùng chữ U là “lợi ích cốt lõi”, Trung Quốc đã tiến xa, tiến sâu ngay trước sự chứng kiến của ASEAN và thế giới.
Thứ hai, Trung Quốc đang tiến đến cô lập và uy hiếp Việt Nam hơn nữa sau chuyến thăm Mỹ và ASEAN của giới quân sự nước này, bất chấp những động thái ôn hòa hơn của giới ngoại giao; đồng thời phát một tín hiệu đến Việt Nam và các nước ASEAN khác rằng họ đang tìm cách vừa làm thân với Mỹ và các cường quốc có lợi ích quốc gia về hàng hải tại khu vực, vừa cách ly Việt Nam với các quốc gia ASEAN. Thậm chí thái độ này của Trung Quốc còn là một nước cờ nhằm làm cho ASEAN bán tín bán nghi liệu họ đã thỏa thuận được với Mỹ và cho Việt Nam phỏng đoán liệu Trung Quốc đang mặc cả với Singapore, Philippines và Indonesia và cả Mỹ trên lưng Việt Nam.
Thứ ba, Trung Quốc đang làm phép thử đối với đường chữ U (đường lưỡi bò). Nếu gặp phải sự phản ứng kiên quyết của Việt Nam và của ASEAN thì họ sẽ tính toán khác. Nếu Việt Nam im lặng và ASEAN giữ thái độ đứng ngoài, Trung Quốc sẽ đương nhiên ghi điểm và sự việc ngày 26/5 sẽ có thể được tô vẽ thành một sự kiện bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc như sự kiện Lý Chuẩn ra Hoàng Sa năm 1909 và sự kiện Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.
Thứ tư, Trung Quốc đang chuyển hướng lưu ý của dư luận ra bên ngoài nhằm hạ nhiệt dư luận đối với các khó khăn xã hội trong nước. Các cuộc đình công của giới xe tải tại Thượng Hải vào cuối tháng 4/2010 và các cuộc đánh bom tại Giang Tây trong tuần vừa qua đã nói lên phần nào lý do thái độ gây hấn của Trung Quốc vừa qua.
Thứ năm, tại Trung Quốc, các nhà nghiên cứu về biển của Trung Quốc được sự tài trợ của chính phủ đã liên tiếp cho ra nhiều sách và xuất bản phẩm đưa thông tin sai lệch về chủ quyền lịch sử của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và lần này họ cũng đang tạo một tiền đề cho các học giả Trung Quốc “bảo vệ” hành động của các tàu hải giám, để dành cho những ngụy biện về sau.
Thứ sáu, Trung Quốc dùng sự kiện này để răn đe các nước khác có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật, nước hiện có kế hoạch triển khai quân ra đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là đảo Điếu Ngư).
Trước những động thái vừa được phân tích trên, những nhà làm chính sách và nhân dân Việt Nam chúng ta cần làm gì?
Đầu tiên chúng ta cần có những phản ứng về ngoại giao ở cấp cao nhất tầm quốc tế (Liên Hợp Quốc) và quyết liệt như gửi kháng thư, yêu cầu bồi thường và thông tin kịp thời đến cho các giới kinh doanh, các hộ ngư dân làm thủy sản, các giàn khoan ngoài khơi để tránh bị động nếu giới quân sự của Trung Quốc lại leo thang xâm lấn. Việc minh bạch các thông tin này cũng là để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trước thái độ hung hăng này.
Cần nhanh chóng xúc tiến xây dựng và ban hành Luật biển Việt Nam để có cơ sở bảo vệ ngư dân, lãnh hải trong khuôn khổ luật quốc tế và các cam kết đối với khu vực.
Lực lượng Hải quân bảo vệ đảo Trường Sa Đông. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Chúng ta cần luôn luôn tận dụng chữ ký của Trung Quốc tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) và tại Tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC 2002) cũng như có những biện pháp để ASEAN có ý kiến, vì đây là một vi phạm nghiêm trọng đến thể diện, lợi ích và những cam kết hòa bình mà ASEAN đã theo đuổi.
Chúng ta cũng cần có cách thức tác động đến nhân dân Trung Quốc là những giới bị thiếu thông tin trong vấn đề biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa. Họ đang ngày càng xa rời sự thật khách quan khi nhận nhiều thông tin có tính dân tộc cực đoan và bóp méo hiện trạng cũng như lịch sử từ giới quân sự.
Nhân dân Việt Nam cũng cần lên tiếng từ các hội đoàn, người Việt ở cả trong và ngoài nước. Đây cũng là lúc mà sự đoàn kết trong và ngoài nước sẽ có giá trị lớn để vượt qua khủng hoảng. Người Việt sẽ tiếp tục sử dụng những cách thức ôn hòa và văn minh để vượt qua thách thức này của đất nước.
Sau cùng, ngoài việc bảo vệ đất nước bằng ngoại giao, chúng ta có lẽ cũng cần tính đến việc buộc phải sử dụng cách thức bất khả kháng, khi có những tình huống xấu hơn nữa, mà không rơi vào tình thế bị động. Hành động xâm lấn không phải chỉ có thể xảy ra ở bờ biển nước nhà, khi người láng giềng lại tiếp tục leo thang với những hành động không thể biện minh được như vừa qua.
Tóm lại, sự việc 26/5 nghiêm trọng ở chỗ sự xâm lấn ngày càng sâu dần vào lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam, thách thức và thăm dò lòng tự trọng của nhân dân Việt Nam. Đã đến lúc chúng ta cần có những giải pháp tổng thể trên nhiều phương diện để tìm giải pháp cho Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông. Các giải pháp hiện nay cần tiến hành đồng bộ, đồng loạt và đi sâu vào nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam.
(Theo Pháp luật TP HCM)

Thursday, April 28, 2011

FIRST LADY

LATHIEWS

Gia đình Ngô Đình Nhu trên đỉnh cao quyền lực

Ngày 24 tháng 4 năm 2011, báo chí đăng tin bà Trần Lệ Xuân, phu nhân của ông Ngô Đình Nhu, cố vấn Tổng thống VNCH và cũng được nhiều người biết đến như là vị Đệ nhất phu nhân nổi tiếng một thời , đã qua đời tại một bệnh viện ở Roma ( Ý)  vào ngày chủ nhật Lễ Phục Sinh, thọ 87 tuổi.

Bà Nhu là một nhân vật đặc biệt của chính thể Đệ nhất Cộng hòa, xuất hiện vào một giai đoạn đặc biệt của lịch sử mà cuộc đời hoạt động chính trị sôi nổi tạo ra nhiều nhận xét trái chiều, nhất là vai trò của bà trong cái gọi là đàn áp Phật giáo năm 1963, một vụ phản kháng bạo động mang màu sắc tôn giáo làm suy yếu chính thể và tạo bất ổn xã hội. Ngày nay nhìn lại quá khứ, nếu trách một bộ phận Phật Giáo cực đoan đã lạm dụng dân chủ để gây rối loạn thì cũng phải công tâm nhìn nhận bà Nhu đã có những lời lẽ xúc phạm đến Phật Giáo, một tôn giáo chiếm đa số trong dân chúng miền Nam lúc đó, gây bất mãn và ngộ nhận chính quyền kỳ thị tôn giáo [1]. Nhắc tới bà , mọi người nhớ tới những phát ngôn quá khích, thiếu kiềm chế như đổ thêm dầu vào lửa , những lời nói gây ra tác hại không nhỏ, được đối phương trong nước lợi dụng kích động gây chia rẽ tôn giáo sâu sắc, và dư luận phản chiến bên Mỹ vồ vập lấy như bắt được vàng, khiến anh chồng và chồng của bà lãnh đủ. Đó là những phát biểu của bà sau vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, đầy khiêu khích và mang tính mạ lỵ công khai, những lời nói không cân nhắc lợi hại tự làm suy yếu mình và tăng thêm sức mạnh cho đối phương [2].

Thật ra, không phải tất cả những phát ngôn của bà đều là thiếu chín chắn, võ đoán, úp chụp mà đều có thể hiện một phần sự thật, nhưng với một phụ nữ thiếu kinh nghiệm chính trường , không có cái khôn khéo giảo hoạt của một người làm chính trị , lại là một đệ nhất phu nhân của một nước, nên vô hình trung những lời nói sơ hở của bà chính là gậy ông đập lưng ông cho chế độ. Như trường hợp Hòa thượng Thích Trí Quang, người cổ xúy cho việc đem bàn thờ Phật xuống đường biểu tình chống chính quyền đàn áp tôn giáo, sau 1975 đã lộ nguyên hình là một người hoạt động chính trị đội lốt nhà sư, gây bất ổn để phục vụ cho mưu đồ riêng tư , đã bị bà vạch mặt chỉ tên “ sư hổ mang” ngay từ đầu [3].

Dù có thù ghét bà Nhu đến đâu thì người ta cũng không thể xóa bỏ công lao đóng góp của bà cho sự ra đời của Luật hôn nhân thời Đệ nhất Cộng Hòa, một đạo luật tiến bộ xóa bỏ tàn tích đa thê từ thời thực dân Pháp để lại hay Luật cấm nhà chứa, cờ bạc và hút á phiện. Những ai đã sống trải qua nhiều chế độ tại miền Nam, có dịp đối chiếu so sánh đều nhận thấy dưới thời Đệ nhất Cộng hòa nhất là những năm đầu, kỷ cương phép nước nghiêm minh, kinh tế vững vàng, bộ máy công quyền trong sạch, văn hóa giáo dục lành mạnh, quan hệ giao tiếp ngoài cộng đồng văn minh lịch sự, nói chung đời sống vật chất và tinh thần đều thấm nhuần đạo lý tình người. Trong khu vực Đông Nam Á , vị thế của Việt Nam ( miền Nam ) cao hơn nhiều so với Thái Lan , Philippine hay Cambodia . Con người ít biết đến giả trá  lừa lọc, các giá trị nhân văn truyền thống trong gia đình , nhà trường, xã hội đều được phát huy và tôn trọng. Sân trường không nghe tiếng chửi thề, rạp hát không thấy cảnh bỏ chân gát lên lưng ghế trước , tắt thuốc và đứng nghiêm khi chào quốc kỳ, mọi người đều tự giác chấp hành luật đi đường, gia đình có người đi tù là một nổi nhục…

Dù chỉ là đưa tin về cái chết của một người đã sống ẩn dật hơn nữa thế kỷ nhưng theo thói quen tuyên truyền, một bài báo [4] cũng không quên xới lại chuyện cũ , rằng năm 1956 bà Nhu sở hữu khối tài sản khổng lồ lên tới 18 tỷ USD, phần lớn gởi trong các ngân hàng nước ngoài (!) . Dĩ nhiên không ai tin rằng bà Nhu không tham nhũng , nhưng nhiều khi cường điệu hóa một sự việc lại có phản tác dụng vì người đọc sẽ nhận thấy sự vô lý do dụng ý không khách quan, ác cảm của người viết , làm sao trong có hai năm 1954-1955 mà vợ chồng bà Nhu lại có thể tom góp 18 tỷ đô la từ tham nhũng , buôn lậu và cắt xén viện trợ Mỹ được ?

Quyển “ Trần Lệ Xuân , giấc mộng chính trường” của Lý Nhân Phan Thứ Lang do nhà xuất bản Công An nhân dân phát hành năm 2005 có nói về cuộc sống của gia đình bà Nhu thời kỳ này như sau : “…đến năm 1952, gia đình Nhu kiệt quệ tài chánh, đến nỗi hàng ngày Lệ Xuân phải đi xe đạp ra chợ ( Đà Lạt – NV) mua từng bó rau, từng lạng thịt về ăn mỗi bữa. Theo lời gia nhân của Lệ Xuân kể lại, bà ta đành phải tháo chiếc vòng vàng đeo ở cổ từ ngày cưới bán lấy tiền độ nhật; Nhu thì còn độc nhất bộ quần áo sơ-mi cộc tay, và quần gabardin…”. Tháng 6 năm 1954, Ngô Đình Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại mời ra làm Thủ tướng, cũng quyển sách trên nói về cuộc sống của bà Nhu như sau : “…trong thời gian này vợ chồng Ngô Đình Nhu vẫn chưa có vị trí xứng đáng đối với Diệm. Cả hai vợ chồng ở nhờ tại một dưỡng đường tư của bác sĩ Cao Xuân Cẩm ( anh ruột Cao Xuân Vỹ ) mang tên Saint Pierre nằm trên đường Armand Rousseau ( nay là đường Nguyễn Văn Tráng ) , hàng ngày Nhu từ đó vào dinh Độc Lập bàn bạc với Diệm kế hoạch chống Hinh và Bảy Viễn…”. Vậy đó , vậy mà chỉ hai năm sau , không biết vợ chồng bà Nhu tham ô nhũng lạm ra sao mà sở hữu khối tài sản lên đến 18 tỷ USD ? Hay suy bụng ta ra bụng người chăng ? Thời đó , trúng số độc đắc chỉ có 1 triệu đồng là thành triệu phú thứ thiệt, mỗi chiều cứ nghe Trần Văn Trạch hát trên radio là ai cũng nghe nao nao : “ Xổ số kiến thiết quốc gia mong ở lòng ta sẽ giúp bao người làm nên cửa nhà…triệu phú đến nơi năm mười đồng thôi mua lấy xe nhà giàu sang mấy hồi…”. Cũng kèm theo bài báo trên là mấy tấm hình chụp biệt thự Hồng Ngọc , Bạch Ngọc, Lam Ngọc của bà trước kia ở Đà Lạt nay đã là tài sản quốc doanh và đã được trùng tu, với lời chú thích là “ xa hoa, tráng lệ ” . Trời đất , nếu vậy thì phải gọi hàng chục ngàn cái biệt thự hoành tráng của các vị đầy tớ nhân dân khắp nước hiện nay là gì nhỉ ?    

Trong một bài báo khác, của Ngọc Lan đăng trên báo Người Việt và được trang web Diễn đàn thế kỷ đăng lại  [5], ông Trương Phú Thứ là người chịu trách nhiệm biên tập và xuất bản quyển hồi ký của bà Nhu sau này, cho biết bà không hề nói về những tư tưởng hận thù, những lời nói động chạm, hay nặng nề đến những người đã làm đảo chánh, lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm và giết chết chồng bà, cố vấn Ngô Đình Nhu,  đều không được nhắc đến trong hồi ký. Có lẽ ông Thứ ngụ ý muốn nói đến đại tướng Dương Văn Minh, một vị tướng mà cuộc đời binh nghiệp luôn gắn liền với chữ “ phản”, về cuối đời sống chui lủi trên đất Mỹ không dám xuất hiện nơi công cộng vì sợ dân Mỹ gốc Việt đòi nợ.

Cuộc sống ẩn cư , an nhiên tự tại của bà Nhu ở Paris sau khi rời bỏ nước Mỹ , nhất là tư cách nghiêm cẩn của bà trong cuộc sống riêng tư và sùng đạo khiến những kẻ lắm điều , chuyên nghề moi móc phỉ báng không có cơ hội đặt điều, bôi bẩn. Đó chính là câu trả lời chính xác nhất cho những hoài nghi về nhân cách của bà , những lời thêu dệt về chuyện tình của bà với tướng phản trắc Trần văn Đôn, chuyện chiếc áo dài cổ thuyền cách tân, chuyện pho tượng hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng, những cánh rừng giá tỵ, sao dầu và đường mòn chở gỗ mang tên Trần Lệ Xuân ở miền Đông .v..v
Dù sao thì bà cũng còn may mắn hơn chồng, vì bà thanh thản về nước Chúa với đông đủ con cháu vây quanh , dư luận cũng công tâm hơn khi nhận xét về bà , khi mà lớp hỏa mù lịch sử bao quanh con người này đã tan đi , trừ một số nhận định thiếu khách quan , cay cú, hằn học thể hiện những quan điểm hẹp hòi đi ngược với truyền thống hòa giải dân tộc. Cay cú hằn học ngay cả với những người đã chết.

Ngôi mộ của ông Ngô Đình Nhu tại Lái Thiêu-Bình Dương ( 2011)


(4-2011)

Chú thích :
[1] Xem Trần Lệ Xuân , Wikipedia tiếng Việt.
[2] “ Phật tử đã nướng thịt sư của họ ( tiếng Pháp : rôti ) sau khi đã đánh thuốc mê ông ta. Nướng thịt người như vậy mà cũng không có nhiên liệu tự túc, chúng phải dùng xăng của Mỹ”. Trích trong “ Trần Lệ Xuân, giấc mộng chính trường”, trang 153.
[3] “ chúng ta không thể khuất phục và chìu ý mấy  tay nhà tu làm loạn do CIA giật dây. Nếu vị nào chân tu ta vẫn kính trọng và giúp đỡ, còn ông nào làm loạn ta nhốt cổ lại”, Sđd trang 144