KIẾN HÀO
Sau ngày 30 tháng 4 năm
1975, toàn bộ những giá trị kinh tế - xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và được
thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử,
triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự phê phán, lên án hết sức nặng nề. Sách giáo
khoa rất ít ghi công mà toàn là những lời lên án, thóa mạ cay độc cố tình giống
như một cuộc trả hận. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển tên vua quan triều
Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những tên khác như Nguyễn Hoàng (Trần Phú), Gia
Long (Lý Tự Trọng), Thành Thái (An Dương Vương), Minh Mạng (Ngô Gia Tự), Hiền
Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn Duyệt (Cách Mạng tháng 8), Võ Di Nguy (Phan Đình
Phùng), Nguyễn Huỳnh Đức ( Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan
Thanh Giản (Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) … Những ngôi trường miền
Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa và các khai quốc công thần triều
Nguyễn cũng chịu chung số phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký, Lê Văn
Duyệt, Trịnh Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản …Đặc biệt địa danh “Gia
Định” để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền Nam đã tồn tại hơn 200 năm cũng bị
xóa mất. Người viết không có tham vọng “tan sương đầu ngõ vén mây cuối trời”
nhưng cũng trộm nghĩ bản thân vốn dĩ là người dân miền Nam, theo gia phả thì tổ
tiên là lưu dân theo đức Cao Hoàng vào Nam lập nghiệp từ rất sớm, lẽ nào đi
ngược lại đạo lý “uống nước nhớ nguồn’ truyền thống của dân tộc Việt mà vào hùa
với bọn bá đạo bắn súng vào quá khứ, nói theo ngôn ngữ hiện đại là “chọi lựu
đạn” vào những người đã có công đi trước, mở cõi cho đến hôm nay cháu con còn
thụ hưởng thành quả để lại. Chỉ ước mong sao có ngày, lịch sử sẽ được viết lại,
trả lại sự thật như nó vốn có chứ không phải viết theo định hướng, lập trường
hoặc chỉ đạo của cá nhân ai .
1. KHAI HOANG MỞ CÕI :
a/. Vùng đất hứa của dân phiêu tán :
Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng xin vào Nam trấn thủ đất
Thuận Hóa sau khi người anh là Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm giết chết để tranh
quyền. “ Ô châu ác địa” không ngờ là mảnh đất dung thân, nơi các Chúa Nguyễn đứng
vững và mở đầu cuộc Nam
tiến của dân tộc Việt suốt ba thế kỷ, trải chín đời chúa. Văn thần triều Lê –
Trịnh là Lê Quý Đôn mặc dù đứng trên lập trường đối nghịch cũng viết những nhận
xét khách quan về Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) trong Phủ Biên tạp lục như sau : “ Đoan Quận Công có uy lược,
xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan
hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dụng pháp công bằng, răn giữ bản bộ,
cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai xứ ( Thuận Hóa- Quảng Nam) thân yên tín phục,
cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm
cướp, cửa ngoài không phải đóng …” .(1)
Nửa cuối thế kỷ 16, cuộc chiến tranh Lê – Mạc đã vắt cạn
kiệt nguồn lực của xứ Bắc Hà, đói kém,
mất mùa liên tiếp khiến dân cư hết sức khổ sở, tạo thành một làn sóng di dân vô
vùng đất phía Nam giàu có của chúa Nguyễn. Đại Việt Sử ký toàn thư (2) ghi chép
lại tình cảnh khốn cùng của dân Đàng Ngoài qua các năm như sau :
Năm 1570 Bấy giờ nhân dân
các huyện ở Thanh Hoa tan tác tháo chạy, ruộng đồng bỏ không cày cấy, nhiều
người bị chết đói.
Năm 1571 Năm ấy đất Thanh
Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt
Năm 1572 Năm ấy, các huyện ở
Nghệ An, đồng ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to, lại bị
bệng dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt, kẻ thì lần vào Nam, người
thì giạt ra Bắc, trong hạt rất tiêu điều
Năm 1589 Ngày 15, mặt trăng
phạm vào sao Tuế. Đại hạn, Gạo kém. Nhiều người xiêu tán.
Năm 1592 Tháng 7 ngày mồng
6, lụt thình lình, nước sông chảy tràn, gò đống bị ngập, đạo Thanh Hoa lúa má
mất mùa. Ngày 15 lại bị lụt. Dân miền Tây Nam cũng bị đói kém
Năm 1594 Bấy giờ nhân dân
các huyện ở Hải Dương mất mùa to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến
một phần ba.
Năm 1595 Bấy giờ nhân dân
mất mùa, đói to, lại thêm ôn dịch, người chết xác gối lên nhau.
Năm 1596 Bấy giờ đại hạn,
thóc lúa vụ chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa
không kết trái. Trộm cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến bảy tám trăm đứa,
bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải
gia súc, thủy bộ không thông, đường sá bế tắc, dân đói nhiều, chết đến quá nửa.
Có thể nói, hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam sau khi được
Nguyễn Hoàng an định, đã trở thành vùng đất hứa cho hàng ngàn người dân trải
dài từ Thăng Long đến Thanh Nghệ, họ là nạn nhân của những năm mất mùa đói kém
và chiến tranh thảm khốc giữa nhà Lê và nhà Mạc (3). Đợt di dân tự nguyện này
cũng giúp giải quyết áp lực dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn,
mở đầu cho các cuộc Nam tiến sau này, những cuộc di dân đã làm tăng thêm sức
mạnh dân tộc và giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ bị Hán hóa.
b. Mở cửa thị trường trong nước, đẩy mạnh giao thương với
các thương nhân nước ngoài:
Chính sách trọng thương của chúa Nguyễn đã khuyến khích các
thương nhân nước ngoài vào làm ăn buôn bán khiến các thương cảng Thanh Hà, Hội
An ở Đàng Trong trở nên sầm uất phát đạt lôi kéo theo các nghề thủ công, tiểu
thủ công như trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, gốm sứ, nghề gỗ, đóng tàu … phát
triển đến cực thịnh. Nguồn thu thuế, lợi tức từ việc trao đổi mua bán hàng hóa
chính là nguồn hỗ trợ chu cấp quân lương cho chúa Nguyễn trong cuộc chiến với
Đàng Ngoài. Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Minh khiến hàng hóa Nhật muốn
vào Trung Quốc và ngược lại đều phải trung chuyển qua các cảng Đàng Trong, vô
tình khiến các thương cảng Hội An Thanh Hà càng thêm sầm uất. Số tàu buôn Trung
Hoa đến thương cảng Hội An từ 1647 đến 1720 nhiều hơn số tàu đến bất cứ nước
nào khác trong vùng. (4)
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, một người quê gốc Bình Định và
có thiên kiến với triều Nguyễn cũng phải nhìn nhận : “ …nhìn lại
trong sự phát triển quyền lực của họ Nguyễn, căn bản tổ chức tuy là theo khuôn
mẫu của một chính quyền phương Đông nhưng trong tình thế riêng biệt của vùng và
của thời thế, yếu tố thương mại đã có dáng quan trọng đến mức chứa chấp cả sự
hưng vong của dòng họ. Không phải chỉ vì nhu cầu tự vệ với Trịnh mà Nguyễn bị
buộc phải củng cố phát triển. Trong một trăm năm ngưng chiến, họ vẫn trên đà
gia tăng cường thịnh để có những toan tính dòm ngó đất Đàng Ngoài, và chuẩn bị
xưng vương lập nước …”.(5)
Nhà du hành hàng hải người Anh John Barrow (1764-1848) là một
người vận động cho công cuộc giao thương giữa công ty Đông Ấn và xứ Nam Hà (6) đã
có những nhận xét về kinh tế Đàng Trong như sau : “ …Theo ý tôi,
sự liên kết thân thiết với Nam Hà sẽ mở ra một con đường lớn cho việc thực hiện
mục tiêu này. Đất nước này sẽ cung cấp
nhiều mặt hàng có giá trị thích hợp với thị trường Trung Quốc, và sẽ mở
ra một lối thoát rất lớn để tiêu thụ nhiều hàng hóa của chúng ta, và vị trí của
nó nằm trên con đường đi thẳng từ Anh tới Trung Quốc là một điều không thể
không suy nghĩ. Chẳng hạn như những khu rừng Nam Hà sẽ cung cấp nhiều loại gỗ hương
liệu khác nhau như hồng đào, trầm hương, kỳ nam …tất cả đều được tán thưởng ở
thị trường Trung Quốc, được trả với giá cực kỳ cao. Quế chi xứ Nam Hà, mặc dù
hơi thô và hương vị cay nồng, nhưng người Trung Hoa vẫn thích nó hơn thứ quế
Tích Lan (Ceyland) …Gạo là nhu cầu không thể thiếu của thành phố Quảng Châu
đông đúc, còn đường và hạt tiêu cũng đều được hoan nghênh, tất cả các mặt hàng
này đều được sản suất dồi dào trong các thung lũng phì nhiêu xứ Nam Hà. Ngoài
những sản vật này, còn có thể kể thêm cau, sa nhân, gừng và các loại gia vị
khác, cùng những tổ chim yến thu lượm được rất nhiều trên những cụm lớn các đảo
chạy song song với bờ biển mà trên các hải đồ có tên là Paracels (Hoàng Sa)…”.
(7)
c/. Mở rộng biên cương vạn dặm :
Nhà sử học Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược (
Chương VI: Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam) đã viết : “ Còn những
công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc
mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ
những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất phì nhiêu bỏ hoang,
làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn
với nước Nam thật là to lớn lắm vậy”. (8)
Đầu thế kỷ 17, xứ Quảng Nam (gồm cả Quảng Ngãi và Quy Nhơn)
là vùng đất cực nam của Đại Việt giáp với Chiêm Thành. Năm Tân Hợi 1611 chúa
Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện
là Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Năm Quý Tỵ 1653, vua nước Chiêm là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở
đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang
đánh. Bà Thấm xin hàng. Chúa Nguyễn lấy đất đặt làm phủ Diên Khánh ( Khánh Hòa
bây giờ).
Năm Quý Dậu 1693, vua Chiêm là Bà Tranh bỏ không tiến cống,
chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem quân
đi đánh, bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ, qua
năm 1697 lại đổi làm phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Rí, Phan Rang làm huyện Yên
Phúc và huyện Hòa Đa. Nước Chiêm Thành bị diệt.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
làm Khâm sai Kinh lược sứ, vào nam lập phủ Gia Định gồm hai huyện : huyện Phước
Long ( Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh
Phiên Trấn (9); lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra
thôn xã và tha thuế để khuyến khích khai khẩn ruộng đất. Những người Tàu di dân
ở đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì lập
làm xã Minh Hương. Những người Tàu này đều thuộc sổ bộ dân nước ta. Phủ Gia
Định khi ấy dân số ước chừng bốn vạn hộ ( 20 vạn người).
Năm 1708, Mạc Cửu cai quản đất Hà Tiên (kể cả Phú Quốc) xin
thuộc về Đàng Trong. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra trấn Hà Tiên, để Mạc Cửu
làm tổng binh giữ đất ấy.
Năm 1732, vua Sâtha của Chân Lạp xin cắt hai vùng Peam Mesar
(Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn Phúc Chú (Trú) để tạ ơn dẹp
loạn. Chúa Nguyễn đặt dinh Long Hồ và lập châu Định Viễn.
Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được chúa
Nguyễn cho nối chức, tiếp tục mở rộng Hà Tiên đến Rạch Giá và Cà Mau. Năm 1757,
chúa Nguyễn đặt ra đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và đạo Long Xuyên (Cà Mau) đều
thuộc về Trấn Hà Tiên.
Năm 1753, vua Chân Lạp là Chey Chêtthâ V (tức Nặc Nguyên) bị
chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh cử binh phạt tội vì thông sứ với
chúa Trịnh và ức hiếp người Côn Man (dân Chămpa lưu vong). Năm 1755 vua Chân
Lạp bị đánh thua, bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ giúp tâu
với chúa Nguyễn xin nộp hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Tân An và Gò Công) để
tạ tội. Chúa Nguyễn cho nhập hai vùng đất ấy vào châu Định Viễn.
Năm 1759, Nặc Nguyên mất, chú là Nặc Nhuận xin dâng hai vùng
đất Trà Vinh và Sóc Trăng để được công nhận là vua Chân Lạp. Đến đây thì toàn
bộ bờ biển hình chữ S của nước ta đã định hình.
Năm 1760, Nặc Nhuận bị rể là Nặc Hinh giết chết. Quan tổng
suất triều Nguyễn là Trương Phúc Du đem quân sang đánh. Nặc Hinh thua chạy và
bị giết. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn (Ang Tong) được lên nối ngôi vua Chân Lạp,
xin dâng đất Tầm Phong Long ( Sa Đéc) để tạ ơn. Đến đây thì quá trình Nam
tiến kể như hoàn tất.
Nặc Tôn lại dâng năm phủ là Kampot, Kompong Som, Chal Chun,
Bantey Méas, và Raung Veng để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho
nhập tất cả vào trấn Hà Tiên. Năm 1841, vua Thiệu Trị trả năm phủ ấy lại cho
Chân Lạp, ngày nay là hai tỉnh Kampot và Tà Keo.
Nhà thơ Nguyễn Duy trong dịp về thăm đền thờ các chúa Nguyễn
ở xã Hà Long, Hà Trung, Thanh Hóa đã viết những dòng ray rứt : “ Nhà Nguyễn đã có công lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự
thật hiển nhiên, vậy mà không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị bóp méo đến
biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính thống, bị hạ thấp một cách oan
ức về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa, bị ruồng bỏ nhiều bài vị tôn kính,
bị xóa tên đường phố nhiều vua chúa kiệt xuất. Tại sao ?” (10)
2. THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC SAU 300 NĂM PHÂN LIỆT :
Có lẽ chưa từng có đất nước nào mà sự cát cứ, chống đối giữa
các thế lực phong kiến lại kéo dài như Đại Việt, suốt từ nửa đầu thế kỷ 16 đến
đầu thế kỷ 19, bức tranh lịch sử với những sự kiện bi hùng xảy ra dồn dập. Cuộc
chiến Nam Bắc triều vừa chấm dứt thì cuộc chiến Trịnh – Nguyễn lại tiếp tục đưa
đất nước vào cảnh chia cắt hàng trăm năm lần thứ hai. Xen vào đó là phong trào
Tây Sơn nổi lên cuối thế kỷ 18. Những cuộc chiến làm suy yếu nội lực đất nước,
gây chia rẽ giữa các vùng miền và tạo cơ hội cho các cuộc ngoại xâm, cũng như
để lại hệ quả là những dấu ấn khác biệt về văn hóa, tính cách, ngôn ngữ, tập
quán trong quá trình phát triển đất nước, con người Việt Nam giữa các địa
phương.
a/. Chiến tranh Nam
–Bắc triều :
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc mở
đầu giai đoạn chiến tranh Nam
– Bắc triều suốt thế kỷ 16. Bắc triều lấy Dương Kinh (Hải Dương) làm kinh đô
thứ hai, dựa vào quân bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam và Kinh Bắc để chống
lại quân Nam triều cát cứ vùng Thanh Nghệ. Chiến trường khi thì ở trong Thanh
Hóa, Nghệ An khi thì tại kinh đô Thăng Long hoặc Sơn Nam, Hải Dương tùy tình
hình tương quan lực lượng hai bên nhưng nhìn chung cuối cùng chỉ nhân dân là
gánh chịu tất cả thiệt hại. Năm 1592, Trịnh Tùng thắng trận quyết định lấy lại
kinh đô Thăng Long và giết chết Mạc Mậu Hợp. Tàn quân họ Mạc tuy còn chiếm giữ
đất Cao Bằng do được nhà Minh chống lưng cho nhưng suy yếu dần, đến 1625 thì
dứt hẳn. Tính ra họ Mạc làm chủ miền Bắc được 65 năm, sau đó tàn dư kéo lên Cao
Bằng nối dài thêm được 33 năm nữa, vị chi là 98 năm. Cuộc chiến Lê-Mạc đã làm
suy yếu nội lực của Đại Việt, một quốc gia cường thịnh lúc bấy giờ trong vùng
Đông Nam Á, trước đó không kể Chăm Pa, Ai Lao, Chân Lạp mà cả các tiểu vương
quốc trong vùng Malacca (quần đảo Nam Dương) cũng phải giao hảo và nộp cống. Những
thành tựu kinh tế - xã hội đạt được thời Lê sơ dưới triều đại các vị anh quân
Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông đều bị chiến tranh làm mai một,
chất lượng cuộc sống bị kéo lùi hàng trăm năm, nạn đói xảy ra khắp nơi ngay cả
tại vùng lưu vực sông Nhị Hà là vựa lúa lớn nhất thời bấy giờ.
b/. Trịnh – Nguyễn phân tranh :
Việt Nam sử lược ( chương III, trang 274, sđd) viết : “ Năm Kỷ Hợi 1599, đời vua Thế tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu xếp xong
việc thông sứ với nhà Minh, và đã chịu nhường đất Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc
rồi, trong nước đã yên dần, bèn tự xưng làm Đô nguyên súy tổng quốc chính
Thượng phụ Bình An vương, rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế một ngàn
xã gọi là lộc thượng tiến, cấp cho vua 5000 lính để làm quân túc vệ. Còn những
việc đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị
dân đều thuộc về quyền họ Trịnh cả. Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ
thì mới cần đến vua mà thôi. Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập làm vương, tục
gọi là chúa Trịnh …”. Năm 1627, Trịnh Tráng đem quân vào nam đánh
Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) lần thứ nhất, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh
Nguyễn. Trong 45 năm đối đầu, họ Trịnh chủ động vào đánh 6 lần, họ Nguyễn chỉ
đánh ra một lần nhưng đều bất phân thắng bại. Sau trận chiến năm Nhâm Tý 1672,
sông Gianh (Linh Giang) được chọn làm ranh giới phân chia Nam Bắc. Kể từ đó,
đất nước bị chia cắt hơn một trăm năm nữa, miền Bắc (Đàng Ngoài) sống dưới chế
độ vua Lê-chúa Trịnh mà vua Lê chỉ là bù nhìn (11); miền Nam (Đàng Trong) các
chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng cương vực Đại Việt đến tận mũi Cà Mau. Năm Giáp
Ngọ 1774, nhân nhà Nguyễn có nội loạn
(Tây Sơn khởi binh), họ Trịnh cho tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh lấy đất Thuận Hóa
và Quảng Nam. Đây là lần đánh nhau cuối cùng giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn.
c/. Phong trào Tây Sơn :
Năm 1765, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát từ trần, cường thần
Trương Phúc Loan chuyên quyền đẩy sự nghiệp hai trăm năm chúa Nguyễn vào thế tuyệt
địa : kinh tế yếu kém, lòng dân ly tán, nội bộ chia rẽ. Nhân cơ hội đó, một hào
phú vốn là chức sắc trong bộ máy thu thuế địa phương là Nguyễn Nhạc (Biện Nhạc)
(12) tự xưng “Tây Sơn trại chủ” đã đứng lên tập hợp dân nghèo dưới lá cờ “cướp
của nhà giàu chia cho dân nghèo” chống lại chính quyền Đàng Trong. Chỉ trong ba
năm , quân khởi nghĩa chiếm trọn một dải đất từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, trở
thành một lực lượng đối trọng với chính quyền Lê-Trịnh ngoài Bắc và họ Nguyễn
trong Nam. Bị đánh dồn ép từ hai phía, Định vương Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân
vào Gia Định tính chước khôi phục. Năm 1775, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc thỏa
hiệp với Nguyễn Nhạc rút quân về chiếm đóng Phú Xuân, nhường đất Quảng Nam cho
Tây Sơn cai quản. Tháng ba năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào Nam bắt
giết Định Vương ở Long Xuyên và Tân Chính Vương ở Bến Tre (13). Tháng năm năm
Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ tiến chiếm Phú Xuân, thừa thắng tiến thẳng ra Bắc, giương cờ “Phù Lê diệt Trịnh” truy đuổi và bắt
giết Trịnh Tông, giao lại quyền cai quản xứ Bắc Hà cho dòng chính thống là vua
Lê Chiêu Thống (14).
d/. Đại Việt trước nguy cơ tan rã :
Năm 1786, sau khi chiến thắng quân Trịnh trở về, đất Tây Sơn
được chia ba : Nguyễn Nhạc tự xưng Trung Ương Hoàng Đế đóng đô tại Quy Nhơn,
phân phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản hai xứ Quảng Nam và Thuận
Hóa, còn Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản toàn bộ đất Gia Định kể cả Bình
Thuận. Mỗi nơi đều có hệ thống chính quyền riêng, độc lập với hai nơi kia, thậm
chí đối địch nhau mặc dù vẫn mang tên gọi chung là Tây Sơn. Phong trào khởi
nghĩa nông dân với chiêu bài “ cướp của người giàu chia cho dân nghèo” đã đi
đến điểm kết thúc với sự thành lập nhà nước quân chủ phong kiến mới! Chính sự
phong kiến hóa quá sớm đó vô hình chung đã giúp cho chúa Nguyễn có cơ hội trung
hưng vì nhờ mảnh đất của vua Thái Đức làm trái độn, tránh đối đầu trực tiếp với
kẻ thù mà ông chỉ toàn đánh thua. Nếu kể thêm xứ Bắc Hà (An Nam cũ) do vua Lê
Chiêu Thống cai trị thì lúc này bức dư đồ Đại Việt như mảnh áo vá rách chia làm
bốn mảnh : từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa thuộc vua Lê, từ Nghệ An đến Quảng Nam
thuộc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi đến Phú Yên thuộc vua Thái Đức
Nguyễn Nhạc, từ Bình Thuận vào nam là của Đông Định Vương Nguyễn Lữ. Nhiều
người thất vọng vì viễn tượng tập đại thành thống nhất đất nước đã không xảy ra,
chẳng những thế ở cả ba miền Bắc Trung Nam sau đó đều xảy ra chiến tranh dữ
dội, cục diện xoay chiều liên tục giữa các thế lực phong kiến.
Đầu năm 1787, (15) Nguyễn Huệ đem quân Tây Sơn Thuận Hóa vào
bao vây đánh phá kinh thành Quy Nhơn, Nguyễn Lữ phái Đặng Văn Chân (Trân) đem
quân Tây Sơn Gia Định về cứu viện bị Nguyễn Huệ đánh tan tại Phú Yên, bản thân
Chân bị bắt sống (16). Thành Quy Nhơn ( Đồ Bàn cũ) bị vây ba vòng, quân Tây Sơn
Thuận Hóa đắp núi đất trên đặt súng lớn bắn vào trong thành, Nguyễn Nhạc phải
lên mặt thành khóc lóc, kêu gọi : “ Nồi da nấu thịt lòng em sao nỡ thế”, Nguyễn
Huệ mới thu quân giảng hòa. Bản Tân (Quảng Ngãi) trở thành địa giới giữa Tây
Sơn Thuận Hóa và Tây Sơn Quy Nhơn. Nguyên nhân là do bất đồng giữa hai người trong
việc phân chia số chiến lợi phẩm quý giá thu được trong phủ chúa Trịnh (17), việc
tranh giành cai quản đất Quảng Nam và nhất là việc Nhạc bạo ngược giết công
thần Nguyễn Thung, thông dâm với vợ Nguyễn Huệ khiến ông tức giận mà từ chối lịnh
đi chầu (Đại Nam Liệt truyện, quyển 30, trang 13b, 14a).
Từ nay mối rạn nứt giữa hai anh em Nhạc - Huệ không còn cơ hội hàn gắn nữa mà
kéo dài đến tận thế hệ sau giữa hai anh em chú bác ruột là Nguyễn Bảo và Quang
Toản, kết cục Toản giết chết Bảo cuối năm Mậu Ngọ 1798. Ngay cả khi vua Quang
Trung mất (năm 1792), Quang Toản cũng không cho người bác ruột ra viếng tang,
khiến Nguyễn Nhạc đi đến đầu địa giới phải quay trở lại Quy Nhơn.
Mùa đông năm Đinh Mùi (1787), sau khi đã giảng hòa với vua
anh, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh
mang tội chuyên quyền, lấy oán báo ơn, mưu đối địch. Chỉnh bị giết chết, vua Lê
bỏ kinh thành trốn tránh trong các hương ấp, nay Hải Dương, mai Sơn Nam rồi lại
trở về Kinh Bắc. Tây Sơn áp đặt chế độ quân quản lên các trấn xứ Bắc Hà, hoàng
thân Lê Duy Cận được cử làm Giám quốc bù nhìn chỉ biết ngày ngày đến tướng phủ
Tây Sơn chờ mệnh lệnh (18). Tháng ba năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình Vương lại thân
ra Bắc diệt Nhậm (19). Những rối loạn thay bậc đổi ngôi liên tục diễn ra trong
một thời gian ngắn khiến tình hình Bắc Hà thực sự rối ren, các võ tướng cũ của
chúa Trịnh và các hào mục địa phương nổi lên quy tụ từ vài trăm đến vài ngàn
thổ binh tự quản lấy, phép nước không còn ai tôn trọng. Trong lúc ấy tình hình
miền Nam
cũng không hơn gì.
e/. Nguyễn Vương Ánh lấy lại Gia Định :
Năm 1786, Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định Vương, cai quản
một vùng đất trù phú rộng lớn từ Bình Thuận trở vào. Tuy nhiên, lực lượng quân
Tây Sơn đóng trên đất Gia Định giống như một đạo quân chiếm đóng hơn là quân
phò chính diệt tà. Quan hệ giữa quân với dân vẫn giữ khoảng cách nếu không muốn
nói là thù địch. Hệ thống chính quyền quân quản do các võ quan đứng đầu chỉ
quen ra những mệnh lệnh tịch thu, sung công, cấm đoán, bắt bớ chứ không biết ra
những chính sách an dân như chính quyền Tây Sơn Bắc Hà. Người Minh Hương ở Trấn
Biên và Phiên Trấn vẫn còn nhớ vụ đốt phá Nông Nại Đại Phố năm 1777, vụ tàn sát
người Hoa để trả thù quân Hòa Nghĩa sau cái chết của Phạm Ngạn năm 1782, gần
nhất là vụ ép dời chợ Bến Nghé về Cầu Sơn cho dễ thu thuế của Nguyễn Lữ. Tóm
lại, quân Tây Sơn chỉ biết “bình” chứ không biết “định”, dù thời gian chiến
đóng có ngắn nhưng không phải là không có cơ hội tổ chức quản lý lãnh thổ. Phàm
lòng dân không theo thì dù lực lượng quân sự có mạnh đến đâu cũng giống như cây
tầm gửi, rể không bén đất thì làm sao tính kế lâu dài cho được. Nên cứ mỗi lần
quân Tây Sơn chủ lực rút về Quy Nhơn, Nguyễn vương mộ binh khôi phục thì dân
chúng miền Nam
vẫn còn nhớ ơn chúa cũ bèn “xứ xứ tịnh khởi”.
Tháng 7 năm Đinh Mùi (1787),
Nguyễn vương từ Xiêm La trở về, thu phục một số hàng tướng Tây Sơn như Nguyễn
văn Trương, Nguyễn Đăng Vân và tập hợp được một số quân tướng cũ, lực lượng lại
mạnh lên. Từ Long Xuyên, chúa Nguyễn tiến lên đóng ở Ba Giồng (Tiền Giang ngày
nay), lại được Võ Tánh đem quân ở Gò Công về giúp, quân Nguyễn dùng hỏa công
phá tan lũy Ngũ Kiều của Tây Sơn, thừa thắng tiến lên chiếm lại đất Đồng Nai,
vây chặt thành Gia Định. Tháng bảy năm Mậu Thân 1788, Nguyễn vương đánh thắng
một trận lớn ở rạch Thị Nghè (Bến Nghé), lại bịt kín đường thoát ra biển khiến
Phạm văn Tham phải rút về Hàm Luông rồi về Ba Thắc. Tháng tám năm đó, chúa
Nguyễn nhập thành Gia Định, chiêu an trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng
cho các tướng sĩ. Qua năm sau 1789, Phạm văn Tham đầu hàng vì tuyệt lương mà
không thấy viện binh. Tây Sơn mất toàn bộ đất Gia Định. Quân Nguyễn từ đây
chuyển dần từ thế thủ sang thế công còn quân Tây Sơn thì ngược lại.
g/. Nhà Tây Sơn tự gây ra họa diệt vong :
Là người dân Việt, hầu như không ai là không biết đến chiến
thắng Đống Đa oanh liệt, một chiến thắng chống ngoại xâm giúp giữ vững chủ
quyền lãnh thổ, ngăn ngừa âm mưu đưa đất nước vào vòng Bắc thuộc một lần nữa
của những kẻ đặt quyền lợi cá nhân, sự tồn tại của dòng tộc cao hơn sự thiêng
liêng của đôc lập dân tộc. Chiến thắng của hoàng đế Quang Trung đã đem lại
chính danh cho vương triều mới, đẩy triều đại Lê Trịnh mục ruỗng lùi vào quá
khứ và thu phục được lòng dân xứ Bắc. Tiếc thay, cái chết đột ngột của người
anh hùng áo vải đuổi Nguyễn, diệt Lê, tuyệt Trịnh, đánh tan hai đạo binh xâm
lược ở hai đầu đất nước xảy ra quá sớm đã khiến cho vương triều Tây Sơn lụi tàn
vì không có người kế thừa xứng đáng.
Thiếu người cầm chịch, các quan đại thần ghen ghét tìm cách
vu cáo hãm hại lẫn nhau khiến sức mạnh Tây Sơn bị suy yếu đi. Thái sư Bùi Đắc
Tuyên giẫm lên vết xe đổ của Trương Phúc Loan năm nào: tự chuyên lộng quyền,
truy bức công thần, hiếp chế ấu chúa, tham lam tư lợi. Năm 1795, Vũ Văn Dũng
nghe theo lời xúi giục của Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ đem quân từ Bắc Hà về bắt
giết Bùi Đắc Tuyên và con là Bùi Đắc Trụ. Sau đó lại cho bắt Đại tư mã Ngô văn
Sở về Phú Xuân, dìm nước chết đi. Nghe tin, Trần Quang Diệu đem quân từ Diên
Khánh về toan bắt Dũng hỏi tội. Nhờ Quang Toản và các tướng hết sức can ngăn,
cả hai mới chịu giải hòa. Năm 1798 Quang Toản nghe theo lời xúi giục của bọn
cận thần giết chết Thiếu phó Nguyễn văn Huấn và Đại tư lệ Lê Trung, con Trung
là Lê Chất bèn về hàng chúa Nguyễn. Từ đấy quá trình suy sụp của Tây Sơn diễn
ra nhanh chóng vô phương cứu vãn. Lịch sử đất nước rẽ sang một chương khác.
h/. Vua Gia Long thống nhất đất nước :
Tháng năm năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn vương đem quân ra vây
thành Quy Nhơn. Trấn thủ Lê Văn Thanh chống giữ không nổi phải mở cửa thành đầu
hàng. Quy Nhơn bị đổi tên thành Bình Định. Tháng giêng năm Tân Dậu (1801) quân
Nguyễn đánh thắng một trận thủy chiến lớn ở cửa Thị Nại, tiêu diệt gần hết tàu
thuyền chủ lực của Tây Sơn, từ đó làm chủ mặt bể. Ba tháng sau, quân Nguyễn lại
thắng trận thủy chiến ở cửa Thuận An, tiến lên vây đánh thành Phú Xuân. Vua Tây
Sơn Quang Toản bỏ chạy, chúa Nguyễn thu phục lại được đô thành sau 27 năm bị
chiếm đóng. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), vua Tây Sơn đem quân 4
trấn Bắc Hà và quân Thanh Nghệ vào đánh lũy Trấn Ninh, lại sai tướng đem 100
chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ (Quảng Bình ngày nay). Bị thủy quân của chúa
Nguyễn đánh bại, quân Tây Sơn phải rút lên bộ rồi bỏ Trấn Ninh chạy về Nghệ An.
Đây cũng là cố gắng tận lực cuối cùng của vua tôi Quang Toản trước lúc triều
Tây Sơn cáo chung. Tháng năm năm Nhâm Tuất, Nguyễn vương lên ngôi tôn tại Phú
Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên. Tháng sáu, quân Nguyễn triều Bắc
tiến, thế như chẻ tre, nội trong một tháng đánh lấy Thanh Nghệ rồi tràn ra Thăng
Long, tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Thọ mở cửa thành ra hàng, vua Gia Long nhập
thành chiêu an, đổi tên Thăng Long thành Bắc thành. Tháng bảy cùng năm, vua Gia
Long trở về kinh đô Phú Xuân, mở đầu giai đoạn thống nhất đất nước từ Nam
tới Bắc, thu giang sơn về một mối.
Nhận xét về sự kiện này, nhà nghiên cứu lịch sử Đỗ Bang đã viết
trong tham luận “Triều Nguyễn-sau 200 năm nhìn lại” (20), xin trích dẫn một
đoạn : “…Một số ý kiến cho rằng triều Nguyễn là phản động
vì đã đánh bại triều Tây Sơn, một triều đại có những cống hiến to lớn trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, lật đổ được chế độ phong kiến cát cứ Đàng
Trong-Đàng Ngoài cũng không đúng. Vì những yếu tố tích cực, tiến bộ của phong
trào Tây Sơn mà nhân dân ta đã giành được dưới thời Nguyễn Huệ đã không còn phát
huy sau ngày vua Quang Trung mất (1792). Triều đại Tây Sơn dưới thời vua Cảnh
Thịnh đã thoái hóa, biến chất, suy đồi dẫn đến mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn xã
hội vô cùng gay gắt, là nguyên nhân dẫn đến thất bại trước áp lực quân sự của Nguyễn
Ánh. Vương triều Tây Sơn đã làm mất lòng dân, không được nhân dân đồng tình ủng
hộ nên quân Nguyễn thắng Tây Sơn là việc thường tình và dễ hiểu…”.
Như vậy kể từ năm 1527 đến năm 1802 là 275 năm chia cắt, đất
nước mới trở lại thống nhất. Năm 1527, lãnh thổ phía nam Đại Việt chỉ đến núi
Đá Bia (Phú Yên). Nếu tính từ đời chúa Nguyễn Hoàng (1558) đến đời chúa Võ
Vương Nguyễn Phúc Khoát (1765), trải 8 đời chúa trong 207 năm đã mở rộng cương
vực Đại Việt lớn gấp đôi; trong lúc đó ở phía Bắc, năm 1540, Mạc Đăng Dung đã
cắt đất 4 động châu Vạn Ninh (Quảng Ninh ngày nay) dâng cho triều Minh để cầu
phong. Công lao to lớn của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở rộng đất nước,
cũng như công lao thống nhất, quy giang sơn về một mối của vua Gia Long cho dân
Việt yên nghiệp làm ăn, đem lại một cuộc sống thái bình cho lê dân sĩ thứ sau
gần ba trăm năm loạn lạc là một sự thật không thể chối cãi.
3. THỬ TÌM CĂN NGUYÊN CỦA NHỮNG ĐỊNH KIẾN CAY NGHIỆT :
a/. Vì sao Thăng Long trở thành
phế đô :
Thăng Long ngàn năm văn hiến, với vai trò vị trí là kinh đô
của nước Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18, niềm tự hào của sĩ phu và dân
chúng Bắc Hà, sự thực đã chấm dứt vai trò lịch sử từ năm 1788 dưới triều Tây
Sơn chứ không phải năm 1802 dưới thời Gia Long, vị vua mở đầu triều Nguyễn như nhiều người lầm tưởng. Năm 1786, họ Trịnh thất bại trong việc
khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu
Thống ngầm cho người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai
phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền, làm mất đi một quần thể kiến
trúc đẹp của Thăng Long - Hà Nội. Điều này được sách Hoàng
Lê nhất thống chí chép
như sau: “ …Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là Án Đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm
sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời,
hơn mười ngày chưa tắt..Thế là hai trăm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã
thành bãi đất cháy đen. Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua
làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ (1786)…”(21). Như vậy đã rõ, chính Lê Chiêu Thống là kẻ đã ra lịnh hủy
hoại công trình kiến trúc có giá trị vào loại bậc nhất của Thăng Long chứ không
phải Nguyễn Hữu Chỉnh làm chuyện này như nhiều sách đã viết (22).
Năm sau 1787, Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt
Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Chiêu Thống bỏ kinh đô bôn tẩu và Thái hậu chạy sang
Quảng Tây cầu viện nhà Thanh (23). Xứ
Bắc Hà trở thành một phần lãnh thổ của Tây
Sơn và kể từ đây Thăng Long không còn là kinh đô nữa. Năm 1788, Nguyễn Huệ
lên ngôi hoàng đế Quang Trung tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt
29 vạn quân Thanh. Mười ba năm sau (1802), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế cũng
tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt bọn Quang Toản, hoàn thành sự
nghiệp thống nhất đất nước. Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, kinh đô Phú
Xuân hai lần chứng kiến hai cuộc lên ngôi chính danh của hai vị hoàng đế trước
khi Bắc phạt , một để đánh đuổi quân xâm lược ngoại bang, giữ vững độc lập chủ
quyền dân tộc, một chấm dứt cuộc nội chiến, thu giang san về một mối. Trong cả
hai lần , Thăng Long đều đóng vai trò chứng nhân lịch sử một cách thụ động.
Có thể nói Thăng Long trở thành phế đô là một tất yếu của
lịch sử, do sự tác động chính từ bên trong (sự mục ruỗng thối nát của chế độ
Lê-Trịnh) chứ không phải do một thế lực bên ngoài nào, Tây Sơn chỉ đóng vai trò
là người kết thúc mà thôi. Nếu không phải là Tây Sơn thì cũng là một lực lượng
khác từ phía Nam
hoặc từ phía Bắc tiến vào xóa sổ nhà Lê mạt như lời của Vũ Văn Nhậm (24). Ai ở
trong cảnh nước mất nhà tan thì mới hiểu cho nổi niềm của kẻ nhà tan nước mất, chúng
ta hết sức thương cảm cho tấm lòng trung trinh hoài Lê của Nguyễn Du và Bà Huyện
Thanh Quan nhưng xâu chuổi các sự kiện lại thì Thăng Long sụp đổ là một biến cố
rất logic (!) bởi vượng khí đã lụi tàn. Lòng riêng ai đó có thể vì nuối tiếc mà
sinh lòng oán ghét cái mới nhưng nếu bình tâm xem xét thì Thăng Long lúc ấy thua
xa Phú Xuân và Gia Định về mọi mặt : kinh tế suy thoái, trật tự suy đốn, đạo lý
lụi tàn, dép mũ đảo lộn. Điển hình là việc viên trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Cảnh Thước
trấn lột cả vua Lê Chiêu Thống thế cô đang trên đường bôn tẩu “ …Vua cho Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở
nhà vua cùng đám người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người
đuổi theo lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt cởi áo ngự bào
trao cho chúng, rồi chạy về núi Như Thiết”.(25) Thật khác với vua
Gia Long, dù bao phen bị Tây Sơn truy đuổi gay gắt thập tử nhứt sinh nhưng đều
vượt qua được nhờ sự chở che của người dân miền Nam. Hoặc trường hợp tên tiểu
lại làng Hạ Lôi Nguyễn Trang phản thầy bán chúa: “ Quán nghe tin có việc biến
(chúa bị bắt-KH), thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói : Làm lầm
chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả. Tông đáp : người ta ai có bụng
nấy, khanh có can dự gì. Quán lui trở vào, bảo Trang : Chúa là chúa chung của
thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh.Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế .
Trang đáp : Sợ thầy chưa bằng sợ giặc,
yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để cho quan lớn làm cho lầm lỡ
đâu. Tiếp đó Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh
đô” (26).
Về mặt võ bị, hãy nghe những lời giễu cợt của tướng Tây Sơn
Ngô Văn Sở, “trưởng ban quân quản" Bắc thành nói với viên quan cựu Lê lưu
dụng là Ngô Thời Nhậm “ …nếu giặc Thanh có sang
thì phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc, nếu không thì túi đao bao kiếm
là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo …” (27) hoặc những lời
khích tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh khi khuyên Nguyễn Huệ thừa thắng tiến ra đánh
lấy Bắc Hà “xứ ấy không còn nhân tài” mặc dù hơi miệt thị nhưng cũng có phần sự
thật như sau này lịch sử đã chứng minh (28). Qua đó, chúng ta thấy Thăng Long
không tự bảo vệ được mình, các đạo quân chiếm đóng lần lượt đến rồi đi như quân
Tây Sơn của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ (1786), quân Nghệ An của Nguyễn
Hữu Chỉnh (1787), quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (1787), quân Thanh xâm lược của
Tôn Sĩ Nghị (1788), quân Tây Sơn của vua Quang Trung (1789) rồi sau này là quân
Nguyễn của vua Gia Long (1802) thay nhau vào ra Thăng Long như chốn không
người, một phần bởi địa hình công dễ thủ khó nhưng phần lớn do tướng bất tài,
quân bê trễ, triều đình không còn kỷ cương.
Thuở sinh tiền, vua Quang Trung đã chọn Nghệ An làm kinh đô
vì đó là trung tâm của đất nước do ông cai quản ( từ Quảng Nam đến Lạng Sơn) chứ cũng không
chọn Thăng Long. Tiếc thay, vận số quá ngắn ngủi của người anh hùng Tây Sơn
khiến dự định không thành. Hãy nghe lời trối trăng của vua Quang Trung cho bọn
Trần Quang Diệu : “…khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải
lo chôn cất, việc tang làm lạo thảo thôi. Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử
sớm thiên đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến
thì bọn ngươi chết không có đất chôn thây đấy ..”(29). Nhà sử học Tạ Chí
Đại Trường lý giải việc tại sao Quang Toản không thiên đô như di mệnh của vua
Quang Trung như sau :
“ Tính chông chênh của nhóm
Tây Sơn Quang Trung thấy đầu tiên ở nơi vị trí trú đóng. Nòng cốt của quân lực
thì lấy ở đất Quy Nhơn mà lại đứng chân trên kinh đô của giòng họ Nguyễn. Người
cầm đầu cũng thấy điều ấy nên lăm le trở về Nghệ An, quê của tổ tông để tìm sự
liên kết cố cựu. Tuy nhiên thực tế đất ấy lại không còn là của họ nữa vì những
người dân đang phải chịu tai ách của chiến tranh hơn cả lúc trước, như lời
Nguyễn Thiếp trình bày, thì không có lòng dạ nào nhận bà con với người áp bức
họ được. Quang Toản sau đó vẫn ở Phú Xuân là minh chứng”. (30)
Sau ngày thống nhất đất nước, vua Gia Long cũng không chọn
Thăng Long làm kinh đô vì nơi ấy không còn là trung tâm Đại Việt nữa. Các chúa
Nguyễn đã mỡ cõi rất xa về phía Nam
suốt ba thế kỷ, đến tận Phú Quốc và Côn Đảo. Nhà Thanh sau đó đã phong cho Gia
Long làm vua nước Việt Nam, Thăng Long trở thành Bắc thành, ngang với Gia Định
thành. Huế tiếp tục là kinh đô cho đến khi thực dân Pháp chia ba đất nước bằng
hòa ước Nhâm Tuất 1874.
Tóm lại , “hào khí Thăng Long” trải qua các đời Lý, Trần, Lê
đến cuối thế kỷ 18 đã lụi tàn, cùng với việc ra đời của vương triều Nguyễn, Huế
(Thuận Hóa) trở thành trung tâm đất nước về mọi mặt hành chính, kinh tế, văn
hóa, quân sự là một sự thay đổi hợp quy luật biến đổi của vạn vật. Không có gì
lạ.
b/. Thành kiến cục bộ địa phương và quan điểm chính trị của
giới Sử học Hà Nội dẫn đến những nhận xét bất công, áp đặt, cực đoan đối với
nhà Nguyễn :
“ …sự thắng thế của Nguyễn
Ánh trước Tây Sơn có thể coi là sự thắng thế của những nhân tố bảo thủ lạc hậu
đối với những yếu tố tiến bộ…” (Nguyễn
Ngọc Cơ, “Một giai đoạn của lịch sử Việt Nam thời Nguyễn và những câu hỏi
cần giải đáp thỏa đáng”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 10).
“ …cái thống nhất của Gia
Long nhờ cắt đất dâng cho thực dân mà có được đã gây mầm chia cắt đất nước …” (Văn Tạo, “Nhà
Nguyễn trong lịch sử dân tộc”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 27)
“ …một số người nghiên cứu
và giảng dạy lịch sử ở miền Nam thời Mỹ-ngụy đã ra sức ca tụng Nguyễn Ánh có
công thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc. Luận điểm này nhằm thực hiện âm mưu của
chính quyền Sài Gòn chủ trương “lấp sông Bến Hải”, “ Bắc tiến”. Ca tụng Gia
Long, phê phán Tây Sơn là “Ngụy triều”, họ đã biện hộ cho việc chia cắt đất
nước, tìm mọi cách kéo dài “biên giới Hoa Kỳ” không chỉ đến vĩ tuyến 17 mà đến
Mục Nam Quan, phục vụ âm mưu chiến lược của Mỹ dùng Việt Nam làm bàn đạp tấn
công Trung Quốc ‘cộng sản”, hòng xóa bỏ hệ thống chủ nghĩa thế giới …”.(Phan
Ngọc Liên, “ Một số yêu cầu về phương pháp luận đối với việc dạy học lịch sử
thời nhà Nguyễn”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 59)
Thứ nhất, Nguyễn Ngọc Cơ đã nhầm lẫn hoặc cố ý nhầm lẫn khi
ông đánh tráo khái niệm bảo thủ lạc hậu và tiến bộ giữa hai chủ thể Tây Sơn và
Gia Long. Những năm cuối thế kỷ 18, vương triều Tây Sơn đã không còn ánh hào
quang buổi đầu : vua Quang Toản ích kỷ nhỏ nhen, đa nghi đố kỵ, giết người bừa
bãi, tàn sát công thần, mù quáng nghe lời nịnh thần dẫn đến nội loạn, trong
triều thì rối ren, ngoài biên cương thì quân tướng hoang mang. Nguyễn Thiếp xin
từ chức về trí sĩ; Nguyễn Bảo, Lê Chất về hàng Nam triều, Trần Quang Diệu và Võ
Văn Dũng mang quân về kinh chực đánh nhau. Thật khác xa với tính chất phong
trào nông dân khi khởi xướng “ cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Người dân
hai miền Nam Bắc trông mong gì ở “yếu tố tiến bộ” ấy ? Trong khi lực lượng
Nguyễn Vương mỗi ngày một lớn lên, thu phục được nhân tâm cả nước, trong một
tháng lấy trọn cả một vùng đất vua Lê cũ. Sau ngày thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành
một quốc gia giàu mạnh, khống chế lân bang, trở thành lực đối trọng với Xiêm La
trong vùng Đông Nam Á. Đó là một “nhân tố bảo thủ lạc hậu” ư ? Thực ra, từ thế
kỷ 18 trở về trước, khi một “lực lượng sản xuất” phá vỡ “quan hệ sản xuất” thì
lại tạo ra một “quan hệ sản xuất” mới theo mô hình cũ. Các lãnh tụ nông dân khi
giành được chính quyền từ các vua chúa cũ thì lại …lên làm vua, chứ không hình
thành nên một chủ nghĩa gì cả vì khi ấy Các Mác hãy còn ở truồng nằm nôi. Có
thể gọi vương triều Nguyễn là ít lạc hậu hơn so với các vương triều Lê mạt, Tây Sơn Quang Toản thì đúng hơn.
Thứ hai, vua Gia Long hoàn toàn không có cắt đất liền hay
biển đảo nào cho ngoại bang (!). Hiệp ước Versailles ( 28-11-1787) có các điều
khoản nhượng cảng Hội An ( Đà Nẳng) và Côn Đảo cho Pháp, cũng như cho phép các
giáo sĩ và thương nhân Pháp được tự do truyền đạo và thương mại trên toàn lãnh
thổ Việt Nam để đổi lấy sự viện trợ về mặt quân sự của Pháp. Việt Nam Sử lược [Cận
kim thời đại, Nhà Nguyễn, Chương I, Thế Tổ (1802-1819)] viết về sự kiện này như
sau: “Năm 1817, chiếc
tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cửa Đà Nẳng. Quan thuyền trưởng là Bá
tước De Kergarion nói rằng Pháp hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những
điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẳng và đảo Côn
Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã
không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”. Ông Văn Tạo là một
cây đa cây đề trong giới Sử học, lẽ nào lại không biết sự thực lịch sử như trên
?
Thứ ba, việc chia cắt đất nước năm 1954 là một vết đen trong
lịch sử Việt Nam, thể hiện mối tương quan và cân bằng quyền lực của các xu thế
chính trị trên thế giới mà đạo diễn là các nước lớn, nhưng đại đa số nhân sĩ và
người dân miền Nam đều chống lại việc chia cắt ấy. Hãy xem lại trong các thư
tịch ai là người đã ký kết vào các văn kiện tủi hổ ấy. Càng lạ hơn với luận
điểm miền Nam muốn “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến” bằng bạo lực và “tấn công”
Trung quốc cộng sản, xóa bỏ hệ thống chủ nghĩa thế giới. Vương triều Nguyễn có
thể không phải là một vương triều minh trị tôi sáng vua hiền, chính thể miền
Nam cũng chưa làm gì nhiều cho dân vì phải lo đối phó với chiến tranh, nhưng đừng
vì phải tuân thủ quan điểm đường lối chính trị trong nghiên cứu, giảng dạy hoặc
vì mặc cảm thất thế của dân tràng an trong bối cảnh lịch sử những năm cuối của
thế kỷ 18 mà vẽ ra những điều vô căn cứ, xa rời sự thực như vậy. Đạo đức của
người làm sử xưa nay đều không cho phép các quan thái sử viết như vậy, nhất là
các nhà mô phạm với thiên chức truyền thụ kiến thức cho đời sau. Miền Nam là
cái nôi cho nhà Nguyễn trung hưng phục quốc, càng về phía nam thì lòng dân ủng
hộ càng nhiều, nhưng vẫn đề cao, ghi công chống ngoại xâm cho vị anh hùng dân
tộc Nguyễn Huệ. Con đường đẹp nhất Sài Gòn mang tên Nguyễn Huệ trong khi Gia
Long chỉ là một con đường nhánh khuất phía sau chợ Bến Thành. Đồng tiền có giá
trị cao nhất mang hình ảnh Trần Hưng Đạo, kế đến là vua Quang Trung và cuối
cùng là Lê Văn Duyệt. Không có tiền giấy nào in hình vua Gia Long cả. Một thái
độ công bằng đối với lịch sử. Sự tri ân của hậu thế đối với tiền nhân.
KIẾN HÀO LUẬN BÀN
:
Ngày nay một mặt thì “người ta” xuyên tạc, bóp méo sự thật,
đổi trắng thay đen khiến vương triều Nguyễn từ một vương triều có công thống
nhất đất nước thành một “tập đoàn phong kiến phản động”; mặt khác thì lại cố
công bôi son trét phấn cho Mạc Đăng Dung, một kẻ quyền thần tiếm ngôi giết vua,
hãm hại trung thần; một kẻ cố kết bè cánh, bảo vệ địa vị bằng mọi giá kể cả cắt
đất dâng nộp cho ngoại bang; một kẻ trói tay khom lưng quỳ gối trước quân tướng
giặc phương Bắc hết sức hèn hạ nhưng sau đó quay ra tích cực “nồi da nấu thịt”
khiến đất nước suy kiệt, nhân dân phiêu tán. Thậm chí ngày nay, giới Sử học
chính thống trong nước còn gọi hành động cắt đất, bán nước của Đăng Dung là
khôn khéo, mềm mỏng (?); một nguyên thủ quốc gia quỳ gối trước tướng giặc là sự
tính toán trong sách lược ứng phó (!); bỏ quốc hiệu xin nội thuộc nước Tàu là một
việc làm tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền (!) (31). Một trò ngụy tạo chữ
nghĩa để tránh né sự thật, hay có gì đồng điệu giữa xưa và nay chăng ? Có phải
những quan điểm “xét lại” này chỉ bắt đầu xuất hiện khi Nga Sô sụp đổ và Việt Nam
rơi vào vòng ảnh hưởng của Tàu, nhất là sau hội nghị Thành Đô 1990 ? Nên không
có gì lạ nếu thế hệ trẻ ngày nay mù tịt về cuộc chiến tranh biên giới 6 tỉnh
phía Bắc năm 1979, cuộc chiến tranh vệ quốc khốc liệt trong 29 ngày đã lấy đi sinh
mạng của hơn ba vạn tử sĩ (32). Hay toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường
Sa (nhóm đảo) (33) bị giặc chiếm mất, không hề có một tiết trong sách giáo
khoa. Trách nhiệm trước lịch sử thuộc về ai ? Cá nhân hay tập thể nào ?
Thói thường gieo hột nào ăn quả đó, làm sao gieo hạt đắng mà
lại mong thu hoạch quả ngọt, hay dạy những điều dối trá lại mong học sinh trở
thành người trung thực được. Hậu quả nhỡn tiền là thái độ chán ghét môn sử của
học sinh thời nay đã nói lên tất cả : những bài học mang tính chính trị, nghị
luận theo quan điểm mác- xít lê- nin- nít khô khan, tham lam, nhồi nhét với
những con số khó nhớ. Còn nhớ năm 2013, khi nhà nước Việt Nam công bố nội dung
thi tốt nghiệp phổ thông không có môn Sử, học sinh “phấn khởi hồ hởi” xé, vứt
toàn bộ bài vở, đề cương ôn thi môn Sử xuống sân trường không thương tiếc. Thật
uổng cho một môn học đúng ra là hấp dẫn nhất trong các môn xã hội học, đã bị
hoen ố vì mưu đồ của các chính trị gia đội lốt thái sử thời nay.
May mắn thay, Việt Nam vẫn còn đó một bộ phận không nhỏ
những người nghiên cứu Sử Việt ở nước ngoài, những nhà nghiên cứu độc lập không
lệ thuộc vào “tính chuyên chính” định hướng, những học giả không bị chi phối
bởi nhãn quan lập trường giai cấp, những
người còn tâm huyết với lịch sử dựng nước và mở nước của cha ông, những người đã và đang tiếp tục sự nghiệp của Ngô Sỹ Liên,
Trần Trọng Kim …với những nhận xét đánh giá công tâm về Vương triều Nguyễn :
công tội phân minh. Nếu chỉ chăm chắm nhìn vào những hạn chế của nhà Nguyễn như
cấm đạo hay chính sách bế quan tỏa cảng hoặc thái độ bảo thủ cố chấp của vua Tự Đức khiến Việt Nam
mất đi cơ hội duy tân, nhất là trách nhiệm của các vua triều Nguyễn trong việc
để mất nước vào tay thực dân Pháp, mà không nhìn thấy công lao của các chúa và
vua nhà Nguyễn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất nước là một thiếu sót
rất lớn nếu không muốn nói là bất công. Tệ hơn nữa là việc vận dụng, áp đặt
quan điểm riêng của một thiểu số (dù là thiểu số lãnh đạo) vào việc nhận định,
đánh giá và phê phán những nhân vật lịch sử, những triều đại phong kiến vốn là
một phần của bộ Sử Việt bốn ngàn năm văn hiến. Điều này hoàn toàn đi ngược lại
truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Nhà văn Nam Bộ Hoàng Lại Giang trong bài viết “Bi kịch của
người anh hùng đi mở cõi”, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 294 khi nhắc đến vị
anh hùng dân tộc Nguyễn Hoàng đã viết : “ Tôi nghĩ, chúng ta tôn kính các vua
Hùng đã có công dựng nước và dựng đền thờ ở thành phố Hồ Chí Minh là phải đạo.
Nhưng ai dám chắc đây là những vị vua huyền thoại hay sự thực? Trong khi đó,
các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi gấp đôi như ngày nay là một sự thực lịch sử thì
chúng ta lại …quên một cách có ý thức …”(34).
Để kết thúc, người viết xin trích một đoạn trong bài “
Nguyễn Hoàng và đất phương Nam” của tác giả Nguyên Hương Nguyễn Cúc, nói lên
tấm lòng tri ân của thế hệ hậu sinh đối với bậc tiền nhân mở cõi : “ …tôi mơ ước có một ngày được nhìn thấy tại cố đô Huế Đài kỷ niệm Công
chúa Huyền Trân, tại Quy Nhơn Đài Kỷ niệm vua Lê Thánh Tôn, tại Tuy Hòa Đài Kỷ
niệm chúa Nguyễn Hoàng, tại Nha Trang Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Tần, tại
Phan Rang, Phan Thiết, Sài Gòn, Hà Tiên Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Chu, tại
Vĩnh Long Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Trú, tại Sa Đéc, Châu Đốc, An Giang Đài
Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Khoát v.v… thì tình quê hương nguồn cội, nghĩa dân tộc
đồng bào sẽ thắm thiết cảm động biết bao” . (35)
Người viết tin trong một tương lai không xa, khi các mối
tương quan giữa việt Nam và các nước, nhất là với Mỹ và Trung Quốc, có những thay đổi theo xu hướng tích cực, sẽ
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nhìn nhận lại lịch sử Việt Nam cận
đại, trong đó có việc đánh giá lại một cách khách quan, khoa học, công bằng về
công tội của vương triều Nguyễn./.
(10-2014)
Tài liệu tham khảo :
- Hoàng
Lê Nhất thống chí, Nhà xuất bản Văn học, 2006
- Đại Nam thực
lục, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002
- Đại
Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học-Xã hội, 2004
- Phủ
Biên tạp lục, NXB Khoa học, 1964
- Việt
Nam
sử lược, Trần Trọng Kim, NXB Tổng hợp TP HCM, 2005
- Đại Nam liệt
truyện, NXB Thuận Hóa 2006
- John
Barrow, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, NXB Thế Giới, 2011
- Lịch
sử nội chiến Việt Nam từ 1771-1802, Tạ Chí Đại Trường, Nhà xuất bản Tri
Thức, 2012
- Lịch
sử nhà Nguyễn- một cách tiếp cận mới, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội,
2011
- Hỏi
đáp Lịch sử Việt Nam,
Nhà xuất bản Trẻ, 2008
- Các
bậc vĩ nhân lập quốc trong lịch sử VN (CBVNLQ), NXB Lao Động, 2013
Ghi chú :
1. Phủ Biên tạp lục, sách đã dẫn, trang 42.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, trang 155
3. CBVNLQ,sđd, trang
144
4.“Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế và xã hội thế kỷ XVII và
XVIII” của Li Tana NXB Trẻ 1999
5. Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 361
6. Xứ Nam Hà thoạt tiên dùng để chỉ vùng đất phía nam sông
Gianh nhưng sau này khi các chúa Nguyễn khai hoang mở cõi thì Nam Hà
(Indochine) gồm cả phần đất Nam Bộ ngày nay.
7. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, sđd, trang 107
8. Việt Nam sử lược, sđd, trang 327
9. Phiên Trấn bao gồm cả Củ Chi và Tây Ninh, còn Trấn Biên gồm cả hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước bây giờ.
10. Rơm rạ ơi ta trở về đây- Sài Gòn tiếp thị Xuân 2008
11. Truyền thuyết dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện Trịnh Kiểm
vấn kế Nguyễn Bỉnh Khiêm về việc có nên soán ngôi nhà Lê hay không ? Ông Nguyễn
Bỉnh Khiêm không trả lời thẳng mà chỉ ngoảng mặt bảo đầy tớ rằng: năm nay mất
mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ. Nói rồi lại
sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa, lại bảo
tiểu rằng : Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản. Nghe sứ giả về thuật lại, Trịnh Kiểm
hiểu ý nên tìm người trong hoàng tộc họ Lê để tôn lên làm vua, chấp nhận thân
phận “dưới một người trên vạn người”. Sự thực tấm gương họ Mạc còn sờ sờ ra đó
khiến Trịnh Kiểm phải chờn lòng, hơn nữa lòng dân vẫn còn luyến nhớ công đức
Thái Tổ, Thánh Tông không dễ quên nên dù gì thì tôn phù chính thống vẫn hay hơn
là thay cũ đổi mới. Trong Nam thì Nguyễn Hoàng dần trở thành một lực đối trọng
họ Trịnh, ngoài Bắc thì dư đảng họ Mạc vẫn còn nhiều ở hai trấn Kinh Bắc, Hải
Dương, lại thêm Minh triều vẫn có ý bênh họ Mạc, chưa công nhận triều Lê trung
hưng. Nên Trịnh Kiểm đã khôn ngoan tạm chấp nhận “lùi một bước, trời cao biển
rộng” chứ chưa chắc là vì nghe theo lời khuyên của Trạng Trình.
12. Nhiều người vẫn bảo lưu ý kiến cho rằng lãnh tụ phong
trào Tây Sơn thuộc giai cấp nông dân. Thực ra xuất thân của Nguyễn Nhạc là lái
buôn, nối nghiệp ông nội là Hồ Phi Tiễn và cha là Hồ Phi Phúc. Ba đời đi buôn,
gia tư khá giả nên trong nhà lúc nào cũng có nhiều môn khách và gia sư. Theo
giáo sư Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử lược, Nguyễn Nhạc phạm tội tiêu lạm
công quỹ, một tội bị hình luật triều Nguyễn xử phạt rất nặng nên cũng giống như
Lưu Bang nhà Hán, Biện Nhạc không còn đường lùi đành đánh cược với số phận.
13. Cả hai vị chúa Nguyễn là Đông Định Vương và Tân Chính Vương
đều bị Nguyễn Huệ bắt sống đem về chùa Kim Chương (Gia Định) hành quyết vào
tháng 10 năm Đinh Dậu 1777. Chùa Kim Chương hiện nay không còn, vị trí chùa
trước kia ở vào khoảng giữa đường Nguyễn Trãi thuộc quận 1 Sài Gòn, khu đất
thuộc Tổng Nha Cảnh Sát cũ, thời Pháp gọi là Gò Ô Ma.
14. Lối hành quân thần tốc và chiến lược tốc chiến tốc thắng
của vua Quang Trung khiến kẻ địch hầu như tê liệt, không có cơ hội để phản
công. Kỷ luật quân Tây Sơn rất nghiêm, nên dù đối phương đã mất hết ý chí chiến
đấu nhưng sức tiến công vẫn không giảm. Đời sau có người phê phán là quân Tây
Sơn “hiếu sát”, điều đó tuy đúng nhưng phàm đã ra trận đối địch thì luôn luôn
mục tiêu chiến thắng được đưa lên hàng đầu, đó là lẽ đương nhiên. Điển hình là
các trận đánh : thủy chiến Cần Giờ 1782, đại chiến Phú Xuân 1786 và nhất là
trận Đầm Mực – Ngọc Hồi 1789.
15. Cuộc chiến giữa hai anh em Tây Sơn xảy ra từ tháng
2.1787 đến tháng 7.1787. Trong lúc này, vua Lê và Nguyễn Hữu Chỉnh cử mưu sĩ
Trần Công Xán vào Nam yết kiến Nguyễn Huệ đòi lại đất Nghệ An. Sợ lộ việc anh
em bất hòa, Nguyễn Huệ dìm nước giết chết Trần Công Xán và từ đó đã có ý diệt
Nguyễn Hữu Chỉnh.
16. Nhân vật Đặng Văn Chân này sẽ xuất hiện trong lịch sử
một lần nữa vào năm 1788, khi ấy là bộ tướng của Ngô Văn Sở, lãnh đạo thủy binh
triệt thoái từ Thăng Long về Tam Điệp ( Ninh Bình) chờ cứu viện.
17. Toàn bộ vàng bạc và các vật dụng quý giá thu được trong
trận đánh chiếm Phú Xuân năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc đều cho tải về Bắc giao nộp
Trịnh Sâm. Mười hai năm sau (1786), vật hoàn cố hương nhưng lần này là trong
tay Tây Sơn. Mười lăm năm sau nữa (1801), họ Nguyễn lấy lại Phú Xuân thì vật
mới về tay chủ. Câu chuyện sủng phi Thị Huệ làm mình làm mẩy với Trịnh Sâm,
quăng hạt ngọc dạ quang trên đầu khăn của chúa Trịnh xuống đất là có nguồn gốc
từ số chiến lợi phẩm này.
18. Mùa Đông năm Đinh Mùi (1787), Thăng Long mất vào tay
quân Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết chết, vua Lê bỏ kinh đô bôn tẩu. Xứ Bắc
Hà chính thức do Tây Sơn cai quản. Khi ấy tại miền Nam, chúa Nguyễn đã về đóng quân
tại Long Xuyên kể từ tháng 7 , binh thế ngày càng mạnh. Như vậy về danh nghĩa
thì từ tháng 11 năm Đinh Mùi - 1787 đến
tháng 8 năm Mậu Thân – 1788 cả nước Việt Nam đều thuộc về ba anh em Tây Sơn nhưng
trên thực tế chưa bao giờ Tây Sơn thực sự thống nhất cai quản toàn bộ đất nước.
Tháng 8 năm Mậu Thân 1788, khi chúa Nguyễn nhập thành Gia Định, chế độ Tây Sơn
tại miền Nam chính thức cáo chung.
19. Nguyễn Huệ không dám mang đại quân ra Bắc vì vẫn còn e
dè, đề phòng lực lượng Tây Sơn Quy Nhơn tiến đánh sau lưng. Ông cũng không dám
ở lâu trên đất Bắc, sau khi giết Nhậm bèn cải tổ sắp xếp lại hệ thống quan chức
cai trị các trấn rồi gấp rút về Nam.
Năm 1792 khi ông mất, Nguyễn Nhạc dẫn đoàn tùy tùng ra viếng nhưng đến đầu địa
giới thì bị các tướng Tây Sơn Thuận Hóa cản lại phải trở về. Năm Quý Sửu 1793,
Quy Nhơn bị quân chúa Nguyễn vây đánh rát quá, liệu thế chống không nổi, Nguyễn
Nhạc xin Quang Toản đem quân Thuận Hóa vào cứu viện. Giải vây xong, Quang Toản
chiếm luôn đất Quy Nhơn của vua bác khiến Nguyễn Nhạc tức giận, lâm bệnh nặng
và từ trần. Năm Mậu Ngọ 1798, Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc) bất mãn, đem quân
chiếm lại thành Quy Nhơn và có ý đầu hàng chúa Nguyễn. Âm mưu bị lộ, Bảo bị
Quang Toản bức tử.
20. Lịch sử nhà
Nguyễn, sách đã dẫn, trang 52
21. Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 187
22 CBVNLQ, sđd, trang
181
23. Khi ấy, tổ chức chính quyền và
quân sự nhà Lê yếu ớt đến nỗi quân Tây Sơn đi đến đâu là tan rã đến đó, không
thể tổ chức nổi một trận đánh cho ra hồn, còn bọn quân tam phủ (kiêu binh), một
thời làm mưa làm gió đất kinh kỳ, chỉ nghe phong thanh chiêng trống thúc quân
của Tây Sơn là đã vứt giáo bỏ chạy.
24. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 285
25. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 271
26. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 107
27. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 335
28. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 94
29. Đại Nam
liệt truyện, sđd, trang 596
30. Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 393
31. Hỏi đáp Lịch sử Việt nam, sđd, trang 106
32. Cuộc chiến biên giới năm 1979 lấy đi sinh mạng hơn ba
vạn quân dân sáu tỉnh phía Bắc, gần bốn mươi năm đã trôi qua nhưng nay không có
một giòng trong tất cả các sách giáo khoa lịch sử, như chưa hề xảy ra.
33. Một số những bãi đá cạn này, giặc đánh chiếm từ tay bộ
đội Hải quânViệt Nam XHCN năm 1988. Phân tích hai sự kiện đánh chiếm Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam của Trung Cộng, ta thấy chúng là bậc thầy trong việc
lợi dụng khai thác tình thế suy yếu của lân bang để ra tay xâm chiếm đất đai :
năm 1974 chúng biết VNCH đã bị Mỹ bỏ rơi không cấp viện và Hạm đội 7 cam kết án
binh bất động nên chúng thoải mái lấy số đông áp đảo để chiếm trọn Hoàng Sa.
Năm 1988, khối CS Đông Âu đã tan rã, còn Liên Xô đang trên bờ vực sụp đổ, Việt
Nam trở thành một nước nhỏ đơn lẽ không liên kết, lợi dụng thời cơ đó Bắc Kinh
tung quân chiếm một số đảo do Việt Nam quản lý, trong số đó có đảo Gạc Ma hiện
đang xây dựng thành cơ sở quân sự của Trung Cộng. Sau Mông Cổ, Tây Tạng, Tân
Cương, Ấn Độ, giờ đến lượt Việt Nam và Philippine trở thành nạn nhân của bọn bá
quyền Bắc Kinh.
34. CBVNLQ, sđd, trang 148
35. CBVNLQ,sđd, trang
151