KIẾN HÀO
Bó thân về với triều
đình,
Hàng thần lơ láo phận
mình ra đâu?
( Truyện Kiều – Nguyễn Du )
( Truyện Kiều – Nguyễn Du )
Nguyễn Hữu Chỉnh
– kẻ sĩ Bắc Hà :
Hoàng
Lê nhất thống chí chép : “ Chỉnh
vốn người làng Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An. Cha Chỉnh nhờ nghề buôn
bán trở nên giàu có, Chỉnh phong tư đẹp đẽ, trí tuệ hơn người, năm 16 tuổi đỗ
Hương cống. Giỏi làm thơ quốc âm ( chữ Nôm) . Tính Chỉnh lại hào hiệp giao du
khắp thiên hạ. Trong nhà lúc nào cũng có vài chục người khách, mười mấy ca nhi và
vũ nữ. Chỉnh tự tay soạn ra bài hát, phổ vào đàn sáo , bắt ca nhi vũ nữ ca múa
để mua vui. Vì thế , Chỉnh được xem là tay phong lưu bậc nhất ở đất Trường An
hồi đó”.
Buổi đầu binh nghiệp, Chỉnh làm gia thần dưới trướng Việp
Quận công Hoàng Ngũ Phúc , sau đó làm Hữu tham quân cho Trấn thủ Nghệ An Huy
Quận công Hoàng Tố Lý. Khi loạn kiêu binh nổi lên (1782) thì Chỉnh đang là một viên
tì tướng trấn Nghệ An. Được tin Quận Huy bị giết, Đặng tuyên phi và vương tử
Cán bị bức tử, Chỉnh hốt hoảng bỏ Nghệ An vượt biển vào Quy Nhơn theo Nguyễn
Nhạc, nhờ lập công đầu trong nhiều trận đánh nên được Nguyễn Nhạc tin dùng.
Năn 1786, quân Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân, nhân đấy Chỉnh
tham mưu cho Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dưới danh nghĩa Phù Lê diệt Trịnh. Các
tướng dưới trướng của Nguyễn Huệ như Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân…vẫn
giữ sự đố kỵ đối với Chỉnh, xem việc Chỉnh dẫn đường cho quân Tây Sơn ra Bắc
diệt Trịnh giống như Ngũ Tử Tư rước quân Ngô về đánh Sở để trả thù cho cha anh;
còn dân chúng Bắc Hà vẫn xem Chỉnh là kẻ bội phản, rước giặc vào nhà khiến sự
nghiệp hai trăm năm nhà Chúa ra tro.
Kịp khi quân Tây Sơn rút về Nam, Chỉnh cũng lật đật rút
theo, đến Nghệ An thì theo kịp. Chỉnh được Nguyễn Huệ giao trấn thủ xứ ấy để làm
rào giậu. Vua quan triều Lê đã sẵn hậm hực vì mất đất Nghệ An vào tay Tây Sơn,
lại thấy thanh thế Chỉnh ngày càng to nên lấy làm ghét lắm nhưng không làm gì
được. Sự nghiệp của Chỉnh lên đến đỉnh điểm khi được vua Chiêu Thống vời về
kinh diệt bọn phò chúa như Dương Trọng Tế, Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ,
đuổi chúa Án Đô vương Trịnh Bồng chạy dài. Cậy có quân công, Chỉnh trở thành
kiêu lộng quá mức, lại có ý làm phản chống lại Tây Sơn, rốt cuộc bị chết dưới
tay tướng Tây Sơn là Vũ văn Nhậm.
Thất bại của Chỉnh một phần do không được sự ủng hộ của dân
chúng Bắc Hà, vốn vẫn xem Chỉnh như một kẻ phản bội cõng rắn cắn gà nhà; khi về
hàng Tây Sơn lại bị Nguyễn Huệ và các tướng nghi ngờ, xem như một hàng tướng
gian xảo, không đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu công tâm nhận xét thì nếu Chỉnh không
bỏ vào Nam theo Tây Sơn thì biết theo ai ? Hào khí Thăng Long đang đi vào giai
đoạn thoái trào, chả lẽ lại theo phò cái thây ma Lê-Trịnh đang mục nát hay theo
làm tỳ tướng cho bọn giặc cỏ ở các trấn như Dương Trọng Tế, Hoàng Phùng Cơ,
Đinh Tích Nhưỡng ? Thế đứng độc lập của Chỉnh ở Bắc Hà thành ra lại có hại hơn
là có lợi. Hậu thế có người thắc mắc tại sao Chỉnh không vượt biển vào nam theo
chúa Nguyễn ? Thì đó, tấm gương Đặng Trần Thường, Lê Chất cho ta thấy phe bên kia chiến tuyến có bao giờ xem bọn hàng
tướng là phe mình đâu ?
2. Ngô Thời Nhiệm, nhà nho thọ lộc hai triều:
Ngô Thời Nhiệm (Ngô Thì Nhậm) xuất
thân từ một gia đình khoa bảng trí thức, cha là Ngô Thì Sĩ làm quan trãi hai
triều chúa Trịnh là Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Khi vụ án năm Canh Tý (1780) xảy
ra, Thì Nhậm đang giữ chức Đốc Đồng trấn Kinh Bắc, còn cha là Thì Sĩ đang làm
Đốc trấn Lạng Sơn. Theo Việt sử Thông giám Cương mục thì chính Thì Nhậm đã hợp
mưu cùng Huy Bá làm tờ khải dâng lên Trịnh Sâm để tố cáo Trịnh Tông “mưu phản”,
trước đó Ngô Thì Sĩ đã cố sức can ngăn mà Nhậm vẫn không nghe. Sau nghe tin
Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm vì có
công tố giác, được thăng Hữu thị lang bộ Công (Thứ trưởng bây giờ-KH). Do đó,
người đương thời có câu rằng “ sát tứ phụ nhi thị lang” (giết bốn người cha để
được làm Thị lang). Bốn người cha là : Thì Sĩ, thân phụ, Trịnh Tông, quân phụ,
hai người bạn của bố là Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản.
Khâm
định Việt sử Thông giám cương mục chép việc này như sau: “Ngô Thì Nhậm, đốc
đồng Kinh Bắc, trước kia giữ việc hàng ngày giảng nghĩa sách cho Khải, rất được
Khải thân yêu kính trọng. Hà Như Sơn, một tên đầy tớ nhỏ, là học trò Thì Nhậm,
hiện làm người giữ sách cho Khải. Như Sơn biết được việc này, đem nói với Nhậm,
Nguyễn Huy Bá, cấp sự trung là người giảo hoạt thâm hiểm, vì tội tham tang, bị
bãi chức. Bá cho con dâu vào làm thị tỳ hầu hạ Đặng Thị (Huệ), lại sai người
thân tín cầu cạnh làm hầu hạ Nguyễn Khắc Tuân, nên dò biết việc này, bèn vào
phủ tố cáo với Đặng Thị. Thì Nhậm định
tự mình phụ hoạ với Đặng Thị, bèn cùng Huy Bá hợp mưu cáo tố là Khải lén lút
cấu kết với hai viên trấn thủ, mưu toan làm việc trái phép. Sâm giận lắm, cho
triệu Đình Bảo vào phủ bảo về việc này, ý Sâm muốn phê phó giao xuống để trị
tội ngay. Đình Bảo can rằng: "Khải dám làm việc to lớn này, chính do viên
quan hai trấn ở Tây và Bắc chủ mưu, nay họ đều cầm quân ở ngoài nếu trị tội một
cách vội vàng, e sẽ xảy ra biến cố khác. Vậy chi bằng trước hết triệu hai viên
trấn thủ ấy về triều, rồi sau sẽ dần dà phát giác sự trạng để trị tội".
Sâm nhận là phải, bèn hạ lệnh triệu Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây. Khi Lệ về đến
nơi, Sâm yên ủi có phần hơn trước. Cách mấy hôm sau, mật bắt được bè đảng của
Lệ; nhân đấy lại cho triệu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc. Khi Tuân đã về,
bắt giam lại cùng với Nguyễn Lệ và Nguyễn Phương Đĩnh, rồi sai Ngô Thì Nhậm
cùng với hoạn quan là Phạm Huy Thức tham dự việc tra hỏi. Gặp lúc ấy,Thì Nhậm
vì cha mất, từ chức về, nên đổi sai Lê Quý Đôn tra hỏi lại, bọn Xuân Thụ, Thế
và Thẩm nhận hết tội lỗi. Sâm bèn truất Khải xuống làm con út (quý tử), giam ở
nội phủ. Bọn Xuân Thụ đều bị giết. Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị giam vào
ngục. Phương Đĩnh vì nuôi dưỡng Trịnh Khải không thành công trạng gì, nên bị
lột hết chức tước đuổi về làng. Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc
chết. Trịnh Khải đã bị phế, ở ngôi nhà ba gian, ăn uống ra vào không được tự
do, người ta đều lo ngại cho Khải, nhưng không người nào dám nói. Lúc ấy có
viên tri châu cũ là Lê Vĩ, dâng thư biện bạch cho Khải là bị tội oan, nhưng
không được Trịnh Sâm xét đến. Trước kia, NgôThì Nhậm sắp phát giác tội của
Khải, đem việc ấy bàn với cha NgôThì Sĩ, Sĩ cố sức can ngăn, đến nổi phải đem
cái chết để thề bồi với con, nhưng chung quy Nhậm vẫn không theo. Kịp khi nghe
tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Về phần
Nhậm, vì có công phát giác, được thăng hữu thị lang bộ Công. Lúc ấy người ta có
câu rằng: "Sát tứ phụ nhi thị lang", nghĩa là giết 4 người cha để mà
làm thị lang. Câu ấy là có ý khinh bỉ Thì Nhậm đó”.
Năm 1782, loạn kiêu binh nổi lên đưa Trịnh Tông trở lại ngôi
chúa, nhũng kẻ tham dự vào việc tố giác chúa năm xưa đều bị kiêu binh lùng bắt
và phá nhà tan tành. Ngô Thì Nhậm bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình, đường công
danh kể như chấm dứt. Âu đó cũng là cái giá phải trả cho những kẻ dùng âm mưu
thủ đoạn chốn quan trường, hãm hại người khác để làm bậc tiến thân. Nếu chúa
Trịnh không bị Tây Sơn lật đổ thì Thì Nhậm kể như hết đường tiến thủ trong lúc suốt
đời phải chịu điều tiếng giết cha của bia miệng. Điều này giải thích tại sao sau
này, cùng với Phan Huy Ích, Ngô Thời
Nhiệm là một trong vài viên quan nhà Lê sốt sắng ra hợp tác với Tây Sơn sớm
nhất trong lúc đa số quan lại Bắc Hà nếu không chạy theo vua Lê được đều chọn
con đường tạm lánh ở ẩn. Vua Quang Trung đã thấu hiểu tình thế “nhạy cảm” của
Nhiệm nên đã có lời an ủi, vỗ về cho kẻ sĩ Bắc Hà yên lòng : “ Ngày trước, ngươi vì chúa Trịnh không dung, một mình bỏ nước mà đi.Nếu
ta không đến đây, ngươi làm sao được thấy bóng mặt trời ? Có lẽ đó là ý trời
muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp,
thế là được”. (Hoàng Lê Nhất Thống chí)
Giống như thái độ đối xử với hàng tướng Hữu Chỉnh, bọn quan
tướng Tây Sơn không bao giờ xem Thì Nhậm là “người mình” hay “quân ta”. Năm
1788, trước khi về nam, Nguyễn Huệ biết bọn tỳ tướng của mình sẽ phân biệt đối
xử với bọn hàng thần Bắc Hà nên đã để lại lời dặn dò tâm huyết : “ Sở và Lân là
nanh vuốt của ta, Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta, Tuyết là cháu của ta, còn
Nhậm vừa là bề tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn học Bắc Hà, thông thạo
việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt. Những việc
quan trọng trong nước, đều cho tùy tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn
thỏa, chớ vì kẻ cũ người mới mà xa cách nhau….”.
Khi quân Thanh sang xâm lấn, Thì Nhậm khuyên Ngô Văn Sở chớ
xem thường quân địch thì Sở đang hồi đắc ý nên không nghe, còn giễu cợt Thì
Nhậm trước mặt bá quan : “…nếu quân giặc có sang thì phiền ông làm một bài thơ
để lui chúng…”. Cũng vì xem thường, không nghe lời bàn của Nhậm nên Phan Văn
Lân đã “nướng” năm ngàn quân tiên phong vào trận đánh bên bờ sông Hồng . Theo
Hoàng Lê Nhất thống chí : “…lúc ấy tiết trời giá rét, Lân kéo quân qua sông
thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với khí lạnh mà lội bừa
xuống nước. Ra đến giữa sông những kẻ cóng quá không thể qua được đều bị chết
đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị quân Thanh giết chết. Lân liệu
chừng không thể giao chiến được nữa bèn vẫy quân chạy lui. Đám quân tan vỡ chạy
trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Lân chỉ trơ một
mình một ngựa mà quay về…”.
Sau chiến thắng Kỷ Dậu (1789), Nhậm
được vua Quang Trung ủy thác đảm đương mặt trận ngoại giao với nước Thanh. Đây
là thời kỳ văn tài của Nhậm được phát huy hết mức. Khi vua Quang Trung mất,
Nhậm bị thất sủng không được Quang Toản và đình thần Tây Sơn tin dùng, bèn lui
về nhà nghiên cứu Phật học.
Sau khi vua Gia Long tiêu diệt nhà
Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích,
Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Lê hàng Tây Sơn bị đánh
bằng roi tại Văn Miếu (1803). Sau
trận đòn, về nhà, vài hôm sau thì Ngô Thì Nhậm chết. Về cái chết của Ngô Thì
Nhậm, người đời thêu dệt thêm chuyện Đặng Trần Thường dụng hết pháp để trả tư
thù, nhưng xét ra luật trời có vay có trả, phải chăng chính những oan hồn của vụ
án năm Canh Tý đã vận vào nghiệp chướng của Thì Nhậm như một cách báo thù của
người cõi âm ? Câu chuyện Đặng Trần Thường tẩm thuốc độc vào roi hoặc
sai hình quan cố ý đánh vào chổ hiểm của Thì Nhậm chỉ là truyền thuyết, không
có chứng cứ. Đánh roi cũng còn là hình phạt nhẹ so với tội “phản quốc” dưới
thời phong kiến. Dù sao hình phạt ấy cũng mang tính nhân văn cao hơn so với ngay
cả các hình thức xử phạt tương tự thời nay của một số chế độ vẫn tự xưng là văn
minh, nhân đạo. Sử gia đời sau cứ trách hình luật triều Nguyễn tàn nhẫn hơn
luật Hồng Đức nhưng xem ra cũng có ngoại lệ. Có thể vua Gia Long vẫn còn chút
biệt nhãn đối với đất và người Thăng Long ngàn năm văn vật. Ai cũng biết thói
đời, kẻ thừa hành xu nịnh thường hay đoán ý mà làm vui lòng quan trên. Huống
chi mối hiềm khích Thì Nhậm-Trần Thường công khai trên sảnh đường ngày nào, ai
ai cũng biết: Thì Nhậm đang hồi đắc ý được Tây Sơn giao cho chức quan to xứ
Bắc, sỉ nhục Trần Thường trước bá quan văn võ. Thời cuộc xoay vần, nay (1803)
kẻ ngồi trên ngôi cao mắng người trở thành kẻ chịu tội, còn kẻ bị mắng trở
thành vị phán quan xét xử. Vậy thì bọn chấp pháp kia dù có ngu dốt cũng biết
cách làm thế nào để vui lòng quan trên của chúng. Bị phạt trượng đau một, nhưng
bị chịu nhục ngay cửa Khổng sân Trình, đối với một nhà nho đau gấp hai ba lần. Trong
lịch sử Việt Nam , cũng có một trường hợp chết vì không chịu nổi nỗi sỉ nhục :
đó là kẻ cướp ngôi nhà Lê Mạc Đăng Dung. Năm 1541, Mạc Đăng Dung dẫn bộ thuộc
lên Ải Nam Quan, mặc đồ trắng, giắt roi trên lưng, tự trói mình, cúi đầu quỳ
lạy trước bọn võ quan nhà Minh, nộp sổ sách đất đai xin đầu hàng, chịu phiên
thuộc, nhận tước phong và nộp cống hàng năm. Trở về Dương Kinh (Hải Dương), bị
ám ảnh bởi nỗi nhục quá lớn, Đăng Dung lâm bịnh và từ trần.
3.Thành phần thứ ba :
Một trong những giải pháp hòa bình được
nêu trong Hội nghị Paris là thành lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần tại
miền Nam, mà thành phần thứ ba là những người trung lập, sống và hoạt động
chính trị-ngoại giao dưới chế độ VNCH. Những người thuộc thành phần thứ ba không
bao giờ thừa nhận mình là cộng sản hay công cụ của công sản, đa số đều tự cho
mình là những người bất đồng chính kiến đang đấu tranh cho tự do dân chủ. Mà chỉ
đấu tranh một phía, với thể chế của chính quyền VNCH , đấu tranh một cách rất
có ý thức trong việc lợi dụng các quyền tự do như ngôn luận hay biểu tình, gây
bất ổn trong một xã hội vốn đã bất ổn
vì chiến tranh. Cao điểm là những năm sau Mậu Thân, lúc tương quan lực lượng
quân sự có những thay đổi đáng kể, và cái bánh vẽ “chính phủ ba thành phần”
đang được nhắc tới như một giải pháp thiết thực được các bên (vờ) quan tâm để
lập lại hòa bình, lực lượng thứ ba với những trò thọc phá sau hậu phương nhân
danh đấu tranh cho hòa bình và độc lập dân tộc lại càng diễn ra quyết liệt trong
các phong trào đô thị.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, một số
thành viên trong lực lượng thứ ba vẫn còn ảo tưởng, ôm mộng sẽ được chia phần
trong chính phủ tương lai, đến trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất xin gặp
phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cái mà họ nhận được sau đó là một bản sao của Bản
tuyên bố ngày 26-4 : yêu cầu chính quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện, giải
tán tất cả các thể chế không còn phù hợp trong tình hình mới. Nghĩa là giải
pháp “Chính phủ liên hiệp ba thành phần” chỉ là một nước cờ trong cuộc chiến
ngoại giao, nay không còn cần thiết trước một thắng lợi quân sự đã rõ ràng. Hình
ảnh một Trịnh Công Sơn trưa ngày 30 tháng 4 lên đài phát thanh ôm đàn gẩy và tự
hát “Nối vòng tay lớn”, sau tuyên bố đầu hàng của Dương văn Minh, rồi cũng ngay
sau đó bị “mời” ra khỏi đài phát thanh là một hình ảnh hết sức ý nghĩa, tượng
trưng cho một “lực lượng thứ ba” đang …hết tác dụng, như anh kép hát bị đoàn
cải lương cắt hợp đồng, như một ca sỹ quần chúng bị lịch sự vỗ tay mời xuống
khỏi sân khấu “hát với nhau” .
Ngày 2.5.1975 chính quyền quân quản ra tuyên bố giải thể mọi
tổ chức, đoàn thể chính trị được thành lập dưới chế độ cũ, những người tự nhận
là thành phần thứ ba phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau : một số lộ ra là
Đảng viên Đảng CS tiếp tục tham chính, một số bỏ của chạy ra nước ngoài (!), một
số (ít) nổi tiếng được chính quyền mới lưu dụng lại trong bộ máy cầm quyền như
một hình thức trả công, tuy không được trọng dụng. Và cũng như những hàng tướng
trong thời phong kiến, dù không bị kỳ thị ra mặt nhưng những kẻ này không bao
giờ được tin tưởng giao cho những vị trí quan trọng, có thực quyền. Xin dẫn
chứng bằng hai câu nói của những nhân vật nổi tiếng trong giới “thành phần thứ
ba” ( xin đừng nhầm với “giới tính thứ ba”) như sau : “Sau 30 năm, tôi vẫn phải gánh trên lưng mình cái lý lịch “viên chức cao
cấp chế độ cũ” như một cục bướu..., tôi chưa bao giờ là một thành viên
trọn vẹn của chế độ mới. Tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng
sản tin dùng trọn vẹn một
người không phải của mình..Một trong những câu nói đầu tiên sau thời gian cha
tôi bị tắt tiếng là nói với tôi một cách giận dữ: “ Tao không muốn gặp mầy nữa.
Gia đình mày như thế này, cha mày như thế này, mà mày còn viết báo cho cộng
sản. Tao từ mày.” ( Lý Quý Chung- Hồi ký không tên- Nhà xuất bản Trẻ TP Hồ Chí
Minh). “Thật rất tiếc. Đáng lý
ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu
gọi dân chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế
mà bây giờ ông lại ra đi ...”
( Thích Trí Quang- Sách đã dẫn).
Ngày nay bình tâm nhìn lại, ta cảm
thương cho số phận những thanh niên miền Nam đã phải lên đường nhập ngũ và bỏ
xác nơi chiến trường, lại càng khinh miệt những hàng tướng trong “lực lượng thứ
ba”, những kẻ xuống đường đòi hỏi hòa bình ngay lập tức, cao giọng rao giảng
đấu tranh cho sự tồn vong của dân tộc, đấu tranh nhân danh bảo vệ quyền con
người (thậm chí là quyền …sướng), đấu tranh bảo vệ cho độc lập tự do, cho hòa
hợp hòa giải dân tộc …nhưng sau đó im thin thít trước cảnh hàng vạn người trầm
luân trong các trại cải tạo, hàng vạn người bỏ xác nơi Biển Đông, hàng vạn
người lìa bỏ nhà cửa đi vùng kinh tế mới, hàng vạn người bị cướp mất đồng tiền
tích góp bằng mồ hôi, nước mắt vì đổi tiền bất công, hàng vạn người tán gia bại
sản vì cải tạo công thương nghiệp. Những nỗi đau, mất mát vật chất còn có thể
kể ra được, còn những nỗi thống khổ tinh thần, ai có thể đo đếm được ?