Thursday, August 9, 2012

NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY

 LATHIEWS
1. Nó chỉ là một đồ vật nhỏ bé , tầm thường, nằm khuất dưới gầm bàn ít được thực khách để ý đến , trừ khi cần vứt một nhánh rau đã vặt hết lá, một lát chanh đã vắt hết nước hay một mẩu khăn giấy đã dùng xong . Khi ấy thì người lịch sự theo quán tính sẽ nghiêng người nhìn xuống gầm bàn tìm nó. Và họ tìm thấy gì ?

Hình 1 : Cái giỏ rác nằm khiêm nhường trông thật tội nghiệp ,
bên cạnh là bãi chiến trường rác, còn bên trên thì mọi người vẫn ăn vô tư.

- “ Chị ơi , sao không thấy cái giỏ rác đâu hết vậy ? ”.
- “ Anh cứ vứt đại xuống đất đi , lát nữa em sẽ gom sau. Trước em có đặt dưới mỗi bàn một cái giỏ rác đấy chứ nhưng có ai thèm bỏ rác vào giỏ đâu ” (!).
Quả thật biết bao là nam thanh nữ tú nhưng hầu như không có ai phải ngượng ngùng khi tiện tay thả rác xuống đất cả. Chị chủ quán còn phân trần thêm là việc quét hốt thu dọn rác rất cực , sau đó còn phải tưới nước rửa lại để sàn nhà không còn bốc lên mùi hôi .

2. Đây là cái hồ nước sạch công cộng, bên ngoài có lắp vòi cho mọi người dùng chung. Khi mực nước trong hồ xuống thấp hơn cái vòi thì nếu mở van đương nhiên sẽ không có nước chảy ra. Không có nước chảy ra thì người ta cứ thế mà bỏ đi. Sau đó khi nước được bơm vào hồ thì cái vòi lại cứ thế mà chảy nước liên tục…

Hình 2 : Vòi nước chảy vô tư…

3. Khi bước vào nhà vệ sinh tập thể của các công ty xí nghiệp thì việc đầu tiên là các công nhân phải tìm cái sô hoặc cái thùng để múc nước dội cầu cho sạch rồi mới giải quyết đến cái nhu cầu “đệ tứ khoái” của mình. Hãy nghe đoạn đối đáp của nhân viên vệ sinh và anh công nhân sau đây :
            - Anh kia, sao không dội nước mà bỏ đi như thế hử?
            - Vậy sao ? Nhưng hồi nãy tôi đã dội nước sạch rồi mới “đi” đó chớ. Bây giờ đứa nào “đi” sau tôi thì phải dội chớ. Như vậy là huề đúng không ?

Than ôi, chẳng phải tính cách bắt đầu thành hình từ các thói quen ứng xử nhỏ bé nhất, tầm thường nhất hay sao. Và nhiều tính cách cá nhân sẽ góp phần làm nên bản sắc văn hóa của một địa phương hay rộng hơn là của cả một dân tộc.

KHÔNG PHẢI CHUYỆN CỦA MÌNH


Lathiews


Lâu nay bà vợ tôi rất tự hào về cái triết lý sống của bả: không phải chuyện của mình thì không để tâm làm gì. Ai sao mặc kệ. Sống thế cho bớt ưu phiền, đỡ bực tức và  hạn chế stress. Theo lý tưởng thực dụng của bả thì sống sao không phiền hà ai và cũng không ai phiền hà tới mình là được.

Đang chạy xe chở bả  trên đường mà thấy có tai nạn vừa xảy ra, định giãm ga rà thắng xem chuyện gì thì bả vỗ ngay vào …đít: “ Thôi đi đi, không phải chuyện của mình ! ”. Có lần chở bả đi trên đường Bạch Đằng (Gò Vấp ), thấy sờ sờ trước mắt cảnh một người phụ nữ đi xe Honda bị hai thằng quái xế giật giỏ xách, mình định la lên thì bả nói nhỏ : “ Coi chừng có cản địa, ông mà la lên là nó chém ông trước à”. Ngoái lại phía sau thì y như rằng,  hai thằng mặt mũi cô hồn vừa lườm nguýt vừa nẹt pô như cảnh cáo mọi người chớ có xem vào chuyện thiên hạ. Bả tự “ sướng ”: “ Ông thấy chưa? Tôi nói rồi, không phải chuyện mình thì đừng xía vô ”.

Chạy xe trên đường Võ Thị Sáu, thấy đám dân oan lôi thôi lếch thếch như đám tàn binh mà 90% là đàn bà con nít đang giơ cao mấy tấm biểu ngữ làm bằng bìa carton, trên vẽ nguệch ngoạc mấy chữ… mình định ngoái cổ đọc thì bả la: "Dòm dòm cái gì , bộ muốn giống họ lắm hở ? Chạy xe lo nhìn đằng trước kìa , ông sao cứ để ý ba cái chuyện thiên hạ không vậy ”.

Đọc báo mạng nói về cậu ấm đỏ đang bị câu lưu vì không thuộc bài, bà chép miệng: “
"Khéo rỗi hơi. Đang ấm êm không muốn, muốn ăn thử cơm tù cho biết. Không phải chuyện của mình mà cũng xía vô. Mà tiến sĩ luật sư đó chớ, sao dại vậy không biết ”. Vừa nói bà vừa liếc xéo, làm như mình là đồng phạm của ông tiến sĩ không bằng.

Nghe tôi phàn nàn vụ tàu cá dân miền Trung bị Tàu đâm chìm, bắt giam đánh đập đòi tiền chuộc thì bà “phản biện” :
-    Ai biểu đi vô vùng biển của nó làm chi ?
-         Trời đất, tới bà là cô giáo mà còn nói vậy hả ? Ba đời nhà ông Mai Phụng Lưu đã đánh cá trên vùng biển Hoàng Sa này rồi chớ phải mới đây ha.
-         Kệ ổng, chuyện ổng có nhà nước lo ông khỏi lo, chuyện không phải của mình.
Hết chuyện. Nói vậy chớ thực ra bả cũng rất quan tâm tới mấy cái vụ như bà Tâm đốt chồng, lễ giỗ Trịnh Công Sơn, Backstreet boys đến VN , Hương Lan, Tuấn Ngọc, Phạm Duy, Chế Linh về thăm quê hương hay vụ người mẫu bán dâm mới đây, mặc dù mấy cái chuyện này cũng đâu có liên quan gì tới bả, có điều bả không biết rằng đó là những thông tin có định hướng cả đó chớ không phải vô tình đâu.

Một đêm mưa, chuông điện thoại réo đột ngột báo hung tin thằng con đang bị tai nạn giao thông gần nhà. Khi vợ chồng tôi đến nơi thì mưa đã ngớt nhưng thằng bé vẫn đang nằm hôn mê trên mặt đường sũng nước. Còn kẻ gây ra tai nạn thì đã được đồng bọn thuê taxi chở đi cấp cứu. Bên kia đường, khách đang uống café trong tiệm đổ ra đứng xem lố nhố nhưng không hề có một ai bước ra. Thằng bạn con tôi, kẻ đi chung xe nhưng may mắn chỉ bị trầy sướt, là kẻ đã điện thoại báo tin, phân trần: “Cháu đã chạy đến cổng công an huyện (chỉ cách đó không đầy 200 mét) nhờ gọi cấp cứu nhưng mấy người trực cổng nói là … không phải việc của mấy ổng ! ”.      

( Ghi theo lời kể của một người bạn )
7.2012 

ĐẠI VỆ CHÍ DỊ TÂN BIÊN ( TT )

KIẾN HÀO

Nước Vệ, tháng tám mùa thu năm Nhâm Thìn đời Vệ Cẩm Vương, dân chúng ở Triều Ca  kinh đô nước Vệ bổng dưng xôn xao trước tin thủy binh Đại Tề vừa đổ bộ chiếm đóng toàn bộ hải đảo của các nước ở Đông Hải, kể cả một số đảo thuộc chủ quyền từ lâu của nước Vệ; đồng thời lập đồn ải kiên cố trên những hòn đảo đó nhằm âm mưu chiếm đóng lâu dài. Như vậy là tiếp theo sau những hành động gây hấn trước đó như cấm biển, đâm chìm tàu cá Vệ, bắt giam đánh đập ngư dân Vệ đòi tiền chuộc, thả chiến thuyền tuần tra, khiêu khích thủy binh Vệ … nay triều đình nước Tề ở Trung Nam Hải lại dấn thêm một bước mới trong âm mưu độc chiếm Đông hải, một là để diễu võ giương oai với chư hầu, hai là để yểm trợ ngư dân Tề đánh cá trộm, ba là để khống chế toàn bộ vùng trời vùng biển, bốn là khai thác tài nguyên khoáng sản trong lòng đại dương, năm là kiểm soát con đường biển huyết mạch từ nam lên bắc của thương thuyền các nước. Chưa hết, Tề vương còn lệnh cho thành lập quận mới gọi là Tam Sa, cử thái thú đến cai trị để áp đặt chủ quyền lên các đảo mới chiếm đóng.

Vệ là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất đối với những hành động hung hăng của nước Tề nhưng không phải là nước phản ứng gay gắt nhất. Trước những thông tin dồn dập trên, triều đình nước Vệ mà đứng đầu là Vệ vương giữ thái độ hết sức khoan thai, hòa hoãn: chỉ ra một bố cáo khẳng định lại nước Vệ có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử không thể chối cãi về chủ quyền trên những hòn đảo ở Đông hải, không một lời trách móc hay lên án nước Tề xâm lược. Đồng thời nêu lên lập trường ba điểm của Vệ Vương: Một là phải kiên quyết bảo vệ lãnh thổ lãnh hải của Vệ quốc, một tấc đất của tổ tiên cũng không được nhượng bộ ; hai là bằng mọi giá phải bảo vệ chế độ đương triều của Vệ Vương; ba là trong nước phải đẩy mạnh tuyên truyền ý thức chủ quyền biển đảo cho dân chúng, ngoài thì liên kết ngoại giao với các nước để lập bộ luật quy tắc ứng xử trên Đông Hải, bảo vệ nền hòa bình trên toàn cõi Trung thổ hiện nay, tránh cảnh núi xương sông máu cho lê dân bá tánh.

Các quan chốn kinh kỳ nhận được chiếu chỉ của Vệ vương, đọc xong hết sức hoang mang bối rối vì lập trường ba điểm của Vệ vương đá nhau chan chát, nếu tuân theo điểm này thì vô tình lại thành ra đi ngược lại tinh thần của điểm kia; rốt lại các quan tự suy diễn ý vua theo lập luận của mỗi người, loạn xị nháo nhào cả lên. Đầu tiên là lời kêu gọi xuống đường tuần hành chống Tề xâm lược do các sỹ phu yêu nước và lão công thần đề xướng, để hưởng ứng lập trường kiên quyết bảo vệ lãnh thổ của Vệ vương. Ý tưởng này chưa kịp thực hiện thì lập tức vấp phải sự phản đối quyết liệt của vị quan Thượng thư Bộ Binh, người này nguyên là con của khai quốc công thần Mỗ… thời tiên đế, nhờ tập ấm chức của bố mà đường hoạn lộ thênh thang. Mới năm ngoái đi sứ ở Tề quốc có những lời vuốt ve nịnh bợ thiên triều làm nhục quốc thể nhưng khi về nước không những không bị cách chức mà còn được Vệ vương khen thưởng.

- Các ông chỉ biết một mà không biết hai, chỉ thấy cái trước mắt mà không có cái nhìn toàn cục.Bọn người kêu gọi tuần hành chống Tề kia có thương yêu gì dân Vệ nước Vệ, chẳng qua là một lũ bất mãn thừa gió bẻ măng, lợi dụng chiêu bài chống Tề để kích động tinh thần tự tôn dân tộc làm rối an ninh trật tự và giãm sút lòng tin của dân chúng đối với triều đình ta, tiếp tay cho bọn phản loạn phá hoại khối đoàn kết thống nhất toàn dân. Chẳng phải Vệ vương ta có nói bằng mọi giá phải bảo vệ chế độ đương triều, các ông là những người ăn lộc của triều đình, lẽ nào không biết nước mất nhà tan, nếu chế độ này sụp đổ thì các ngươi cùng gia đình vợ con sẽ không có tấc đất để đặt chân, nói gì đến bảo toàn gia sản và giữ gìn mồ mả tổ tiên. Việc chống Tề triều đình đã có kế sách, từ nay kẻ nào còn dám mạnh miệng kêu gọi tuần hành sẽ bị quy tội tay sai ngoại bang, âm mưu gây rối, bắt giam vô thời hạn ngay, không cần xét xử. 

Lời nói vừa hăm dọa vừa vỗ về của quan Thượng thư không làm yên lòng tất cả, nên có vị quan ở Ngự sử Đài chuyên nghề đàn hặc mới lên tiếng :

-Luật nào cũng không bằng luật kẻ mạnh, liên kết ngoại giao phải trên thế mạnh của nội lực trong nước, nếu sự phản đối của Vệ chỉ dừng lại ở mức độ cực lực lên án, lặp đi lặp lại khẳng định chủ quyền, cơ sở pháp lý thì có khác gì tòa án chuột xét xử tội con mèo, như lời Tề vương đã tự ví : mèo nào cũng là mèo miễn là bắt được chuột. Nếu mai kia Tề được nước lấn thêm một bước như xua thủy quân phong tỏa bờ biển của Vệ hay kiểm tra giấy phép đánh bắt cá, thu phí ngư nghiệp tàu cá các nước v.v. .thì chúng ta lại cứ ngồi yên mà cực lực lên án nữa hay sao ?

Lại có một vị quan khác, nói :

            -Năm ngoái thì cấm biển, đâm chìm tàu, bắt ngư dân Vệ đòi tiền chuộc, xua thủy binh ra tập trận giương oai; năm nay lại phân lô đấu thầu khai thác tài nguyên trên vùng biển Vệ, đổ quân xây căn cứ địa trên các đảo hòng chiếm đóng lâu dài , lại hăm đưa đại soái hạm tuần tra thường trực Đông hải như thú dữ phun nước tiểu đánh dấu lãnh địa. Rõ ràng âm mưu của Tề là từng bước lấn tới, biến không thành có, biến vùng biển không tranh chấp thành vùng có tranh chấp để đòi chia phần. Như vậy mà triều đình ta còn coi Tề là đối tác chiến lược , hợp tác toàn diện trên cơ sở phương châm “16 chữ vàng” và tinh thần “4 tốt” sao ?

Đến đây thì xuất hiện một kẻ trán vồ môi mỏng, phương phi béo tốt như được tẩm bổ thường xuyên bằng sâm phương bắc, nhìn kỷ thì ra nguyên là sứ thần nước Vệ  tại kinh đô Lâm Truy nước Tề mới về nước, tiến lên nói :

-Yêu nước cũng có năm bảy đường yêu nước. Không hẳn cứ phải cầm binh khí mặc giáp dày xông ra trận tiền đương đầu với giặc mới là giỏi. Người làm tướng phải biết sở trường sở đoản của ta và địch. Chẳng phải Vệ vương ta có nói phải kiên trì đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, làm cho các nước thấy rõ đâu là chính nghĩa, đâu là những bất đồng cần phải giải quyết hay sao. Đường lối đối ngoại của Vệ vương ta là nhất quán và kiên định trong việc giải quyết những vấn đề trên biển Đông hải thông qua biện pháp hòa bình và trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất định không manh động làm phức tạp thêm tình hình. Nếu muốn tỏ lòng yêu nước thì xin các vị hãy ra sức làm tốt công việc của mình đi đã. Xin đừng cầm đèn chạy trước xe trâu như thế.

Các quan nhìn nhau ngao ngán thở dài, rồi không ai bảo ai lần lượt lui ra khỏi sân triều, lên kiệu nhà ai nấy về. Hay chuyện, vị ẩn sỹ đất Triều Ca mới ngữa mặt lên trời cười ba tiếng, khóc ba tiếng mà nói rằng :

- Than ôi, nước xa không cứu được lửa gần, lời nói phải không ngăn được súng đạn, bằng chứng lịch sử không cản được lòng tham bá quyền nước lớn, luật pháp quốc tế có nghĩa lý gì với kẻ võ biền cậy mạnh. Hòa bình chỉ đạt được khi hai hoặc ba bên có thiện chí ngồi lại thương lượng, còn nếu có một kẻ ỷ vào sức mạnh mà tùy tiện hành động bất chấp lẽ phải trái thì lời nói dù có đủ lý lẽ tới đâu cũng chỉ là nước đổ đầu vịt, đờn khảy tai trâu mà thôi. Kìa trông, nay giặc đã vào sân nhà mà còn mong phân trần phải quấy, kẻ cướp đã tay xách nách mang mà còn mong phân định chủ quyền, thằng ăn trộm đã ra khỏi cửa còn định vác đơn đi kiện. Trong lúc triều đình Vệ lải nhải lặp đi lặp lại lời hô hào đấu tranh hòa bình thì lũ giặc biển nhung nhúc ngoài kia tha hồ tự tung tự tác, chỉ tội cho ngư dân Vệ trong tay không tấc sắt nay phải rời bỏ ngư trường truyền thống lên bờ mưu sinh, chờ vua quan Vệ dùng lẽ phải thuyết phục bọn kẻ cướp trả lại những gì đã lấy (!). Kỳ thực mọi việc đều đã có sự sắp xếp trước giữa triều đình hai nước, những lời hô hào bảo vệ lãnh thổ lãnh hải của Vệ vương và đám cận thần chẳng qua chỉ là hình thức bề ngoài để lấp liếm sự hèn yếu của mình, xoa dịu sự phẫn uất của quần chúng và né tránh trách nhiệm mang danh tội đồ bán nước trong lịch sử dân tộc sau này mà thôi. Than ôi, xưa nay sự việc ở đời cứ trôi đi như sóng nước Trường Giang, lớp sau đè lớp trước, hết phế tới hưng có chi lạ…

Sunday, July 15, 2012

THIỆT LÀ HẾT “ Í ”

Lathiews

Mỗi năm hết hè lòng man mác buồn. Mùa tựu trường sắp đến, các điểm bán sách giáo khoa đông vui như trẩy hội. Vào một chi nhánh Fahasa (công ty Phát hành sách thành phố Hồ Chí Minh) tìm mua bộ sách lớp 6 cho đứa cháu đang háo hức được vào lớp đầu cấp, người viết bỗng dưng hết hồn khi thấy trang bìa quyển sách địa lý lớp 6 đặt trang trọng trên kệ ghi rõ : Địa lí lớp 6. Trời ạ, sao mà vô lý, ủa quên vô lí quá vậy. Kể từ lúc đó, mình có cảm giác bần thần như một kẻ vừa bị móc túi, và tức anh ách như một người dừng xe đèn đỏ bị húc vào phía sau. Về nhà, cất công vào mạng lục tìm căn nguyên chủ trương cải cách i/y, tìm cơ sở pháp lý của cái chuyện chuyển đổi oái oăm này thì thấy có quy định của Bộ Giáo dục do thứ trưởng Võ Thuần Nho ký, tiêu đề : “Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục” ban hành ngày 30.11.1980. Trong đó quy định viết thống nhất i cho tất cả những từ có vần i/ y đứng cuối (vần mở, không có phụ âm cuối), như kỳ dị thành kì dị, lý trí thành lí trí, mỹ vị thành mĩ vị…(cái khôn của nhà cải cách là biết chừa ra biệt lệ cho vần uy chứ nếu không thúy sẽ thành ra thúi mất), còn i hay y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết thì viết tùy theo thói quen. Theo quy định này, phần lớn những từ có sáu phụ âm đầu là h, k, l, m ,t , s đều phải đổi từ y thành i như hy vọng-hi vọng, hy sinh-hi sinh, ly kỳ-li kì, kỹ sư-kĩ sư, lý luận-lí luận, địa lý-địa lí, mỹ lệ-mĩ lệ, mỵ dân-mị dân, sy tình-si tình, kẻ sỹ-kẻ sĩ, nô tỳ- nô tì, tỷ lệ- tỉ lệ…

 Như vậy một chủ trương lớn, làm thay đổi một cách viết quốc ngữ truyền thống, một yếu tố văn hóa của dân tộc đã ổn định hàng trăm năm, chỉ do một quan chức cấp bộ phán bảo là xong. Tiếc thay, ông Thứ trưởng chưa phải là ông… Trời, nên văn bản chỉ có giá trị thi hành trong ngành GD chứ không nhận được sự đồng thuận của xã hội. Và nay xu hướng quay về viết phân biệt i/y càng ngày càng phổ biến, chứng tỏ chủ trương ‘nhất thể i’ thất bại là khó tránh khỏi. Thí dụ mọi người nay đều viết là “nước Mỹ” chứ không ai viết là “nước Mĩ” nữa. Xin trích một đoạn trong bài viết của ThS Đào Tiến Thi * để chứng minh:
“…Việc nhất thể i trong Quy định 1980 được thực thi ở sách giáo khoa cải cách giáo dục, bắt đầu từ 1980 (lớp 1), hoàn tất 1992 (lớp 12). Trong khoảng thời gian đang thay sách thì có văn bản mới thay thế. Tuy nhiên NXB Giáo dục vẫn tiếp tục cách viết nhất thể i. Phải chăng để khỏi “tiền hậu bất nhất”, những người làm sách đã vận dụng phần “để ngỏ” trong Quy định 1984? Hoặc họ là những người ủng hộ quan điểm nhất thể i. Vì như ta thấy, trong đợt thay SGK mới đây (2002 – 2008), NXB Giáo dục và NXB Đại học Sư phạm (Hà Nội) vẫn tiếp tục nhất thể i. Cả một lớp người đông đảo đã được nhất thể i thông qua ghế nhà trường suốt 30 năm qua!
 Mặt khác, các cơ quan xuất bản và báo chí không thuộc Bộ Giáo dục không chịu sự tác động pháp lý của các văn bản trên vẫn tự lựa chọn chính tả theo quan niệm của mình, cho nên hầu hết họ vẫn duy trì việc phân biệt i/y như trước năm 1980. Tìm hiểu sách của 49/59 nhà xuất bản hiện nay chúng tôi thấy 46 nhà xuất bản vẫn phân biệt i/y. Khảo sát hơn 100 tờ báo và tạp chí (viết), cũng chỉ thấy mấy tạp chí chuyên ngành ngôn ngữ là nhất thể i, gồm Ngôn ngữ (Viện Ngôn ngữ học), Ngôn ngữ và đời sống (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam), Từ điển học và bách khoa thư (Viện Từ điển và Bách khoa thư Việt Nam), còn lại đều viết phân biệt i/y, kể cả một số báo và tạp chí của ngành giáo dục như Giáo dục và thời đại, Thế giới mới, Thế giới trong ta. Một số tác giả có sách ở NXB Giáo dục đã đề nghị phân biệt i/y trong một số sách nghiên cứu. Các tên riêng trong sách của NXB Giáo dục, trước áp lực của xã hội, cũng dần đổi từ i ngắn sang y dài...”

Đây cũng không phải là lần đầu mà những “í” tưởng vĩ đại , tự ví mình như đỉnh cao trí tuệ, có chỉ số IQ cao trong thượng tầng kiến trúc của bộ máy nhà nước VN cụ thể hóa sự thông thái của mình. Nhiều người còn nhớ đợt cải cách chữ viết hơn hai mươi năm trước đã để lại di chứng kéo dài cho đến tận ngày nay: cả một thế hệ học sinh tiểu học thập niên 80 viết cùng một kiểu chữ phải gọi là xấu đau xấu đớn, dùng bút pháp sổ dọc kéo ngang như chữ Tàu để viết những ký tự như l, h, t, g…thay thế cho những nét viết có bụng mềm mại uyển chuyển đã thành hình từ hàng trăm năm nay. Hồi ấy những lớp tập huấn viết chữ kiểu mới cho các thầy cô diễn ra rầm rộ khắp các tỉnh thành trong cả nước, sau đó những hạt giống lại về triển khai cho các đồng nghiệp trong trường.

Hậu quả nhỡn tiền : chữ viết của các “ nạn nhân ” vừa xấu xí, nhỏ li ti như con kiến vừa so le giống như hàm răng cải mã hay nghiêng ngã như các hàng cọc gỗ trên sông Bạch Đằng. Cuối cùng thì có chỉ thị của “trên” yêu cầu quay về viết theo lối cũ. Khi báo chí lên tiếng truy vấn ai là tác giả của “tối kiến” trên thì bóng đổ thầy, thầy đổ bóng không ai nhận chịu trách nhiệm, thật là bi hài. Một công trình tầm cỡ quốc gia, ảnh hưởng đến hàng triệu người, do một cái đầu óc vĩ cuồng nào đó tạo dựng trong phút chốc hứng chí, vậy mà cả nước cũng hăm hở làm theo ! Bây giờ ( 2012 ), thỉnh thoảng nếu tinh ý bạn sẽ bắt gặp những nét chữ cải cách của lứa học sinh ngây thơ trong trắng ngày đó, hầu hết nay đang ở độ tuổi trên dưới 30. Mới thấy tác hại kéo dài của một ý tưởng sai lầm, khi đem lĩnh vực giáo dục thế hệ trẻ ra làm phòng thí nghiệm.  

Trở lại vấn đề thay thế y bằng i, có lẽ các nhà ký âm pháp có thiện ý muốn tạo ra một chuẩn mực thuận tiện cho việc viết chính tả vì tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm, dù là i hay y thì thời lượng phát âm cũng dài như nhau chứ không phải y phát âm kéo dài hơn i, nhưng tự bao đời nay dù có phát âm theo giọng điệu đặc thù vùng miền, hầu hết người Việt vẫn biết phân biệt rõ ràng i/y và viết đúng chính tả, trừ những người có học vấn quá kém. Cũng như nhờ phân biệt rõ ngữ nghĩa và nhớ mặt chữ mà hầu hết đều viết đúng d/gi, g/gh, ng/ngh, hoặc khó hơn như c/k/q. Những âm trên còn khó phân biệt hơn i/y nhiều. Chưa kể về mặt thẩm mỹ nhất là danh từ riêng, y đẹp hơn i nhiều. Ngôn ngữ dân tộc nào khi thể hiện bằng chữ viết cũng có những bất hợp lý và biệt lệ riêng không theo quy luật, đòi hỏi người học phải nhớ thuộc lòng nhưng đâu có ai đem tiếng mẹ đẻ ra đo may ni tấc cho vừa chữ viết. Do đó, lý do nhất thể i để tạo thuận tiện cho người viết nghe hơi khiêm cưỡng, không thuyết phục. Thí dụ người miền Nam dù giọng nói không phân biệt d/v/g… như nói :…dĩ dãng dễ dầu dì dấu diếm , nhưng vẫn viết đúng: …dĩ vãng dễ dầu gì giấu giếm. Thật dễ dàng(!).

Gần đây , để nói tắt cụm từ Nhóm các nước phát triển  ( G7), người phát ngôn đài truyền hình Hà Nội đọc là Gờ bảy chứ không đọc là Giê bảy như truyền thống. Ngôn ngữ Việt Nam được ký âm bằng chữ la tinh ( bảng chữ cái ). Khi đánh vần thì các phụ âm đứng trước nguyên âm như  b, c, d , g…đọc là bờ, cờ , vờ , gờ ; còn khi các phụ âm trên đứng một mình thì được đọc là bê, xê, dê , giê theo phát âm Pháp ngữ . Thí dụ chữ cái G đứng một mình đọc là giê nhưng chữ Gỗ đánh vần là : gờ - ô - gô - ngã - gỗ. Đọc Gờ là hết sức khiêm cưỡng. Có lẽ họ chê đọc “giê bảy” là còn tư tưởng lệ thuộc vào thực dân Pháp chăng ?

Nhưng đâu có ai chối bỏ được nguồn gốc chữ Việt là do người phương Tây đem lại. Ví thử bây giờ có người yêu nước nào đó kêu gọi quay về viết chữ Nôm như thời Quang Trung thì cả nước phải đi học viết chữ Tàu sao ? Tiếp thu cái mới thì có gì là tội lỗi chứ ? Đáng trách chăng là những kẻ ăn cơm Việt, nói tiếng Việt mà đi thờ ngoại bang kia kìa .

Nên cùng chung một hệ thống đài quốc gia mà đài truyền hình Sài Gòn thì đọc là giê bảy, còn đài truyền hình Hà Nội thì đọc là gờ bảy, nhưng cả hai đài vẫn đọc HTV là hát tê vê, VTV là vê tê vê chứ không đọc hờ tờ mờ, vờ tờ vờ (!).  Thật là gờ gờ gờ gờ ( gật gà gật gưỡng ). Không thấy mười ngàn ông tiến sỹ-sĩ có vị nào lên tiếng bảo ban giùm cho.

Trước khi lên giường ngũ để kết thúc một ngày đau khổ, người viết chợt nảy ra một suy luận : biết đâu mốt mặc áo thun lửng quần sooc ngắn thay vì quần dài của thế hệ nữ tuổi teen ngày nay là để hưởng ứng phong trào lấy i ngắn thay y cờ rết (?!!!) Hay ngược lại , bởi vì thấy mặc quần ngắn dễ thương quá nên người ta mới nảy ra ý đem i ngắn thay thế cho y dài ? Dù sao cũng may là người ta còn giữ lại dấu chấm trên đầu chữ i, chứ nếu bỏ luôn thì ngắn phải biết (!); hay mai mốt lại có một bộ óc vĩ cuồng ( lại vĩ cuồng ) nào đó lệnh cho những người biên soạn sách giáo khoa thay phụ âm cuối c thành k thì học tập sẽ viết thành ra họk tập, ăn mặc thành ra ăn mặk… vui ra phết nhể !

 ( 7- 2012 )


* http://ngonnguhoc.org/index.php?option=com_content&view=article&id=605:ban-tip-v-chuyn-i-ngn-y-dai&catid=29:bai-nghien-cuu&Itemid=39

Tuesday, May 8, 2012

HẬN VONG QUỐC


KIẾN HÀO
  
Đồ Bàn vong quốc ca :

Thành Đồ Bàn hay Chà Bàn (Vijaya ) do vua Chiêm Harivarman II xây dựng cuối thế kỷ X sau khi kinh đô cũ là Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Trải qua gần 800 năm tồn tại trong đó có 472 năm là  kinh đô Chăm Pa, Đồ Bàn trở thành mục tiêu bị đánh phá trong những cuộc chiến tranh giữa Chiêm Thành với các nước chung quanh như Xiêm La , Chân Lạp, Nguyên Mông nhưng nhiều nhất vẫn là với Đại Việt. Có thể ghi lại năm tháng diễn ra những trận đánh lớn mà kinh đô Đồ Bàn trở thành chiến địa như sau : 1044, 1069, 1074 chiến tranh với triều Lý của Đại Việt ; 1145, 1190 ( Chân Lạp); 1283 ( Nguyên Mông) ; 1252, 1312, 1377 ( triều Trần) ; 1313 ( Xiêm La) ; 1403 (  triều Hồ) ; 1446, 1471 ( Triều Lê ).

Lần sau cùng năm 1471, Đồ Bàn bị vua Lê Thánh Tôn của Đại Việt bao vây, triệt hạ và ra lịnh phá hủy . Sau trận đánh này , Chiêm Thành chỉ còn lại vùng đất ven biển từ phía nam đèo Cù Mông đến Phan Rang và bước vào thời kỳ suy tàn , đến năm 1691 thì vùng đất cuối cùng bị chúa Nguyễn Phúc Chu sát nhập hẳn vào Đại Việt lập thành phủ Bình Thuận [1].

Thành Đồ Bàn một thời gian dài  bị bỏ quên trong cảnh hoang phế, năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng Trung Ương Hoàng Đế và cho tu sữa lại làm kinh đô triều Tây Sơn, nên còn gọi là thành Hoàng Đế. Năm 1799, Nguyễn Vương chiếm thành và đổi tên là thành Bình Định. Năm 1816, vua Gia Long cho phá bỏ thành, dời thủ phủ về Quy Nhơn ở phía nam. Cùng với Chiêm quốc, thành Đồ Bàn (Vijaya ) rơi dần vào quên lãng, đến nay chỉ còn là một phế tích thuộc xã Nhơn Hậu cách thành phố Quy Nhơn 27 km về hướng Bắc.

Trong quá khứ , cũng như các nước trong vùng Nam Á khác, vương quốc Chăm Pa từng chịu ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo của Ấn Độ từ rất sớm. Trong lúc Đại Việt ( từ Hoành Sơn trở ra ) còn đang là một quận huyện của nhà Hán thì Chăm Pa đã giành được độc lập tự chủ . Một trùng hợp lịch sử là từ thế kỷ thứ XV đế quốc Angkor và vương quốc Chăm bắt đầu suy tàn , cũng là lúc Xiêm La và Đại Việt trở nên hai quốc gia hùng mạnh trong vùng Đông Nam Á.

Người đọc sử thường chỉ nhớ đến những trận đánh của Chế Bồng Nga ( Che Bonguar ) vào kinh đô Thăng Long của Đại Việt hay Chế Chí ( Jaya Indravarman IV ) vào kinh đô Khmer nhờ vào những đội hải thuyền hùng mạnh từng làm chủ vùng biển Đông Nam Á, xuống đến tận quần đảo Malacca chứ ít ai biết rằng Chăm Pa còn là một quốc gia có nền văn minh phát triển cao lúc đó so với các nước trong vùng, có ngôn ngữ chữ viết riêng, hình thành phong tục tập quán riêng cũng như tín ngưỡng Hindu từ rất sớm; một nền thương mãi hàng hải vươn ra xa tầm cỡ châu lục và trình độ tiểu thủ công nghiệp bậc cao như gốm sứ , thổ mộc, nhất là lĩnh vực đóng tàu thuyền.
  
 Nhớ về Chiêm Thành, cũng nhớ đến gương trung trinh tiết liệt của vương phi Chăm Mỵ Ê, một điểm sáng của bậc quần thoa biết hy sinh thân mình để giữ vẹn lòng trung với chúa và giữ trọn nghĩa phu thê [2], thiết nghĩ cũng xấu hổ thay cho Dương Vân Nga và Trần Thị Dung của Đại Việt là phường trốn chúa lộn chồng lại làm bậc mẫu nghi thiên hạ trong một quốc gia vốn vẫn đề cao lễ giáo [3].

Ngày nay, dân tộc Chăm là một trong những sắc dân thiểu số trong đại gia đình Việt Nam gồm 64 dân tộc, tập trung đông nhất ở Phan Rang và An Giang nhưng di tích cổ tháp Chăm hiện diện rải rác khắp từ Quảng Bình đến Nam Trung Bộ kể cả ở Tây Ninh. Nổi tiếng nhất là quần thể tháp Mỹ Sơn ( Duy Xuyên Quảng Nam ) được xây dựng trong thời kỳ hưng thịnh của vương quốc Chăm Pa, Tháp Bà ở Nha Trang, và các ngôi tháp còn sót lại trong thành Đồ Bàn .

Bài hát “ Hận Đồ Bàn ” thật bi thương, hùng tráng do nhạc sĩ Xuân Tiên sáng tác năm 1962 làm người nghe ngậm ngùi , tưởng nhớ đến một quốc gia Đông Nam Á hùng mạnh oanh liệt một thời, một dân tộc có nền thương mãi hàng hải phát triển và tiểu thủ công nghiệp thật tinh xảo, đã bị diệt vong dưới bao lớp sóng phế hưng chỉ vì sai lầm của các vì vua đã chọn chiến tranh làm quốc sách .

Lời bài hát “ Hận Đồ Bàn ” :

Rừng hoang vu!
Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù
Ngàn gió ru
Muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
Vạc kêu sương!
Buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.
Đèn đóm vương
Như bóng ai trong lúc đêm trường về.
Rừng trầm cô tịch
Đèo cao thác sâu
Đồi hoang suối reo
Hoang vắng cheo leo
Ngàn muôn tiếng âm
Tháng, năm buồn ngân...
Âm thầm hòa bài hận vong quốc ca.
Người xưa đâu?
Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu.
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu.

 Đồ Bàn miền Trung đường về đây...
Máu như loang thắm chưa phai dấu
xương trắng sâu vùi khí hờn căm...khó tan.
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng xa xa tắp!
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga...
Vượt khơi

 Về kinh đô
Ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù ...
Triền sóng xô
Muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ ...
Tiệc liên hoan
Nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ yến ban
Cung nữ dâng lên khúc ca Về Chàm.
Một thời oanh liệt
Người dân nước Chiêm
Lừng ghi chiến công
Vang khắp non sông.
Mộng kia dẫu tan.
Cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non.
Người xưa đâu?
Mồ đắp cao nay đã sâu thành hào.
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu

 Đồ Bàn miền Trung đường về đây...
Máu như loang thắm chưa phai dấu
xương trắng sâu vùi khí hờn căm...khó tan.
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng xa xa tắp !
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga...
Người xưa đâu?
Thuật Hoài – một bài thơ vong quốc thời Trần :

Cuộc kháng chiến chống quân Minh của vua tôi nhà hậu Trần dù thất bại nhưng tiết tháo của Trùng Quang Đế, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy vẫn là tấm gương yêu nước ngời sáng cho hậu thế . Một bài thơ rất nổi tiếng mà những ai yêu văn học sử nước nhà đều biết, đó là bài Thuật Hoài của Đặng Dung , “ một trong những áng hùng thi kiệt xuất của văn học dân tộc ”[4] . Lý Tử Tấn , một nhà thơ lớn của nước ta thời Lê sơ, có lời bình : “ Phi hào kiệt chi sĩ , bất năng ” ( Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi bài thơ này ). Nay Kiến Hào xin mạo muội viết thêm : “ Phi vong quốc nô , bất cảm ” ( Nếu không phải kẻ chịu cảnh nước mất nhà tan không thể cảm thông hết được ).

Phiên âm :
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phò địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

Dịch nghĩa
Việc đời dằng dặc mà tiếc thay tuổi đã già,
Trời đất rộng lớn cùng nhập vào cuộc say ca.
Thời cơ đến, bọn hàng thịt ( ngoài chợ ), bọn đi câu ( ngoài sông ) vẫn có thể thành công dễ dàng,
Lỡ vận, người anh hùng cũng phải uống nhiều tủi hận.
Phò vua, có lòng nâng trục đất,
Rửa binh khí, tiếc là không có lối kéo sông Ngân Hà xuống.
Nợ nước chưa đền mà đầu đã sớm bạc,
Bao phen, thanh gươm Long Tuyền đem mài dưới ánh trăng.

Dịch thơ :
Sự đời bề bộn , tiếc mình già,
Trời đất quay cuồng cuộc say ca.
Gặp thời, đồ điếu thành công dễ,
Lỡ vận anh hùng ngậm xót xa.
Phò chúa dốc lòng ghì địa trục,
Rửa gươm chẳng lối kéo Ngân Hà.
Nợ nước chưa đền, đầu đã bạc,
Gươm mài bao bận dưới trăng ngà. [5]

Hoài Lê vong quốc thi :

Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu
( Kiều )
Nhà ( Hậu ) Lê là vương triều Việt Nam có thời gian trị vì lâu nhứt trong lịch sử, kéo dài hơn 360 năm, kể từ vua Lê Lợi lên ngôi 1428  đến 1789 là năm vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, đặt dấu chấm hết cho chế độ vua Lê – chúa Trịnh mục ruổng, thối nát. Dù ngay khi cai quản Bắc Hà, Tây Sơn đã có yết bảng chiêu an và cầu hiền nhưng đa số quan lại cựu trào nhà Lê vẫn còn giữ tấm lòng yêu mến vua xưa chúa cũ. Một số ít chạy theo vua và Thái hậu sang Tàu rồi gởi nắm xương tàn bên đó, còn lại đa số chọn thái độ bất hợp tác bằng cách lui về ở ẩn. Điều đó phù hợp với đạo lý thánh hiền ( tôi ngay không thờ hai chúa ) và lòng tự trọng của kẻ sĩ ( ơn vua lộc nước cao dày, hạt cơm của chúa còn dính kẻ răng ). Chỉ một số rất ít những kẻ cơ hội là các quan chức có tì vết dưới chế độ cũ mới ra hợp tác với chính quyền mới với vỏ bọc là “ thức thời” như Ngô Thời Nhiệm hay Phan Huy Ích [6]. Ngay cả thi hào Nguyễn Du cũng bị bắt giam ba tháng và bị “ quản chế ” tại gia ( Hà Tỉnh ) vì cái tội định “ vượt biên ” vào Nam theo chúa Nguyễn. Như vậy đủ hiểu tấm lòng hoài Lê của dân xứ Bắc sâu đậm đến nhường nào.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí có nhắc đến những sự kiện liên quan đến giai đoạn này như sau : [7]
“…Lúc Nhậm thừa thắng kéo quân ra Bắc, như vào làng bỏ không, không một người nào dám chống cự. Nhậm có vẻ dương dương tự đắc. Kịp khi bắt sống được Nguyễn Hữu Chỉnh, Nhậm tự cho là uy vũ của mình đủ khiến người ta phải phục, khu xử việc Bắc hà không có gì khó. Khi nghe vua Lê chạy sang phía Bắc, nương tựa vào Nguyễn Trọng Linh, Nhậm liền tức tối gởi thư bắt buộc Linh phải đem vua Lê ra nộp. Nhậm lại cho đòi các người trong tôn thất và các quan văn võ phải đến cửa quân chờ hầu; thường dùng cách hất hàm, đưa mắt, dùng bộ điệu khí sắc để sai khiến mọi người mà chẳng ai dám làm gì. Thế nhưng rốt cuộc Nguyễn Trọng Linh vẫn không đến mà các viên quan có thế lực cũng chẳng ai tới…

Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Nhậm chuyên quyền, cắt đặt lại quan chức cai trị các trấn, cử Lê Duy Cận làm Giám quốc thay vua Lê đang ẩn trốn trong dân, triệu tập các cựu thần triều Lê để an ủi vỗ về nhưng không một ai tin :

…Bắc Bình Vương tạm dùng lời nói ngọt để giá ngự chúng ta chứ không phải thật bụng. Văn Sở cầm quân ở đây, thì Sùng Nhượng Công làm gì mà có nước ? Hể cử động gì liền bị họ nắm lấy cánh ta, ông ấy còn làm được chi ?Ví như cây tầm gửi, bám vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao được ? Chúng ta, người nào có thể đi theo vua lo việc khôi phục thì đi đi, nếu không thì nên ẩn xa cho sạch mình, chớ để cho người ta lừa phỉnh mà rước lấy vạ …

Dù sau này nước nhà thống nhất ( 1802 ), các vua đầu triều Nguyễn có vời một số quan lại cựu trào ra giúp triều đình mới ( dĩ nhiên lý lịch phải sạch , không dính tới Tây Sơn NV) nhưng nổi niềm hoài Lê u uất , tiếc thương chúa cũ cùng với việc Thăng Long đổi làm Hà Thành, trung tâm văn hóa chính trị cả nước dời về phương nam ( Huế ) khiến giới sĩ phu , quan lại Bắc Hà được lưu dụng mang tâm trạng vừa tự ti vừa tự tôn như một nàng góa bụa nhà giàu tái giá. Điển hình là trường hợp của Nguyễn Du, qua những ghi chép của Sử quan triều Nguyễn [8] :

 Du người huyện Nghi Xuân , trấn Hà Tĩnh, là con Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, và là em Tham tụng Nguyễn Khản; Du là con nhà tướng, có văn tài sẵn khí tiết, không chịu theo giặc. Gia Long sơ , bổ làm tri phủ Thường Tín, rồi  vì ốm xin cáo từ; Năm ( Gia Long ) thứ ba, triệu bổ Đông các học sĩ; năm thứ tám ra làm Cai bạ Quảng Bình, trị dân có chính tích; năm thứ 12, thăng Cần chính điện học sĩ, sung Chánh sứ sang nước Thanh tuế cống, đến khi về, thăng Hữu Tham tri bộ Lễ [9]. Minh Mạng năm thứ 1, lại có mệnh đi sứ, chưa đi thì chết.   
Thánh Tổ Nhân Hoàng đế rất tiếc, cho 20 lạng bạc, hai cây gấm Tàu, khi đưa tang về cho thêm 300 quan tiền. Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến có vẽ sợ hãi như không nói được. Vua thường bảo rằng :” Nhà nước dùng người, chỉ cần người hiền, vốn không phân biệt Nam Bắc, ngươi cùng với Ngô Vị đã được đối đãi hậu, làm quan đến bậc Á khanh, nên biết thì phải nói để hết chức phận, khá nên do dự rụt rè chỉ cốt dạ vâng làm gì ”.
Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ”Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời. Du trước vì gia thế làm quan nhà Lê, gặp loạn Tây Sơn không có chí lại ra giúp đời nữa, còn tự ý đi chơi săn bắn núi Hồng Sơn 99 ngọn, vết chân hầu khắp. Khi bị lệnh triệu không thể từ được mới ra làm quan, thường phải chịu khuất với cấp trên, lấy làm uất ức bất đắc chí. Đến khi bệnh kịch, không chịu uống thuốc, sai người nhà mở duỗi chân tay, nói đã lạnh cả, Du bảo rằng :”Tốt”, nói xong thì chết, không nói một câu nào đến việc sau khi chết….  

Một nhân vật “hoài Lê” khác, một nữ sĩ cũng nức tiếng văn chương, dân Hà Thành chánh gốc là Bà Huyện Thanh Quan với những bài thơ hoài cổ, chan chứa nỗi thương nước ( cũ ) nhớ nhà ( xưa ) khiến người đọc xiết bao ngậm ngùi thương cảm. Buồn nhưng không bi lụy , thất vọng nhưng không oán thán; mượn cảnh để tỏ nổi lòng, những bài thơ nôm của nữ sĩ Thanh Quan đều bất hủ với thời gian và không một ai không khâm phục[10]. Bà từng được vua Minh Mạng biết tiếng , mời vào kinh đô Huế làm Cung trung giáo tập, dạy các cung phi và công chúa.


THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

QUA ĐÈO NGANG
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại : trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.

CHÙA TRẤN BẮC
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách đi qua đó chạnh niềm đau.
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá ?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn chương đài người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nổi hàn ôn ?

   
LỜI BÀN CỦA KIẾN HÀO :

Than ôi , lẽ đời cực thịnh đến suy, hết hưng tới bỉ, có phải bao giờ chính nghĩa cũng thắng gian tà đâu, nếu phải thế thì rợ Mông kia ngồi trên lưng ngựa mà chiếm Trung Nguyên cả trăm năm để giải phóng cái gì ? Một dúm bọn rợ Mãn nhân danh cái gì mà khai hóa Hán tộc suốt ba trăm năm lịch sử ? Dẫu tống cựu nghinh tân, đổi xấu lấy tốt là quy luật của tạo hóa, cơ trời đã định nhưng lẽ thường tình đứng trước cảnh ruộng dâu bể muối mấy ai không nảy lòng thương cảm. Đó chính là sự phân biệt giữa con người và cỏ cây muông thú.

Để đánh đổ cái cũ dựng lên cái mới, có thế lực nào mà không nhân danh những điều tốt đẹp để lấy lòng dân và huy động sức người sức của. Đánh giá công tội tốt xấu một vương triều, tưởng chỉ nên xét hành trạng lúc cầm quyền, có xem “ dân vi quý , xã tắc thứ chi , quân vi khinh ” hay không, hay đến lúc cầm quyền rồi thì dùng định chế hà khắc để trói buộc, coi người dân như một dạng tài nguyên để khai thác, lợi dụng quyền hành mà vơ vét của cải, có khác chi cùng một giuộc với bọn ăn cướp. Bản chất thì giống nhau, chỉ khác cái bề ngoài mà thôi !
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
( Tháng 4 – 2012 )

     
GHI CHÚ :
[1] :      Đại Nam Liệt truyện - tập 2- chính biên - sơ tập - quyển 33
            NXB Thuận Hóa – 2005
[2] :      Năm 1044 vua Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, giết vua Chiêm là Sạ Đẩu, tịch thu rất nhiều của cải, voi ngựa và cung nữ đem về, trong số có vương phi Mỵ Ê . Khi xa giá về về đến sông Lý Nhân Hà Nam, Thái Tông cho đòi Mỵ Ê sang chầu bên thuyền ngự. Mỵ Ê giữ tiết không chịu, quấn chiên quấn quanh người rồi lăn xuống sông mà tự tử.
[3] :      Dương thị là hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng, khi vua bị thích khách giết chết con là Đinh Toàn lên nối ngôi khi mới 6 tuổi, Dương thị được tôn làm Thái Hậu .  Dương thị tư thông với tướng Lê Hoàn từ trước khi Hoàn soán ngôi lập nên triều ( Tiền ) Lê, sau được Hoàn lập làm Hoàng Hậu . Mặc dù Lê Hoàn có công đánh thắng giặc Tống xâm lược, giữ vững nền độc lập tự chủ còn non trẻ của nước nhà nhưng quan điểm người chép sử là công tội phải rạch ròi phân minh, sử quan các triều sau đều nghiêm khắc phê phán Dương thị dâm loàn. Do tạo nghiệp ác nên họ Lê chỉ truyền được 3 đời thì dứt , anh em tranh giành chém giết lẫn nhau và vua Ngọa triều Lê Long Đỉnh là một tên vua cùng hung cực ác. Mới hay gieo nhân nào gặt quả ấy là vậy. Họ Lý ( Lý Công Uẩn ) làm vua là điều hợp với ý trời lòng dân.
            Trần Thị Dung là vợ ngoại hôn của vua Lý Huệ Tông. Do không có con trai nối dõi nên Huệ Tông bị quyền thần Trần Thủ Độ ép phải nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, lại sắp đặt cho vua lấy cháu là Trần Cảnh. Sau khi Huệ Tông bị bức tử, Trần Thị Dung về làm vợ Trần Thủ Độ, hai người là chị em chú bác ruột . Giống như Lê Hoàn, Trần Thủ Độ dù có hành vi tàn độc với tôn thất họ Lý nhưng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông, giữ vững nền độc lập tự chủ nước nhà. Sau này bị họ Trần bị họa ngoại thích, mất nghiệp vào tay  họ Hồ âu cũng là quả báo vậy.  
[4]:       Nguyễn Khắc Thuần – Việt sử giai thoại – NXB Giáo Dục 2007
[5]:       Phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ của Nguyễn Khắc Thuần , sách đã dẫn.   
[6] :      Ngô Thời Nhiệm ( có sách ghi Ngô Thì Nhậm ) làm quan dưới triều vua Lê – chúa Trịnh . Do có công cáo giác vụ mưu phản của Thế tử Trịnh Tông nên được thăng Hữu thị lang bộ Công. Sau vụ kiêu binh làm binh biến đưa Trịnh Tông lên ngôi chúa, Nhiệm bị phế hết các chức quan , phải trốn tránh trong dân.
            Phan Huy Ích là văn quan nhưng chúa Trịnh lại cử đem quân chống lại Nguyễn Hữu Chỉnh . Ích đánh thua , bị Chỉnh bắt giam. Khi Tây Sơn ra Bắc diệt Chỉnh, Ích cùng với Nhiệm là những người ra cộng tác với Tây Sơn sớm nhất.
[7] :      Hoàng Lê nhất thống chí , NXB Văn học 2006, trang 281
[8] :      Đại Nam liệt truyện – Quyển 20 - NXB Thuận Hóa 2006
[9] :      Tương đương Thứ trưởng Bộ Văn Hóa bây giờ.
[10]      Kiều Văn – Thi ca Việt nam chọn lọc – NXB Đồng Nai 2009

Thursday, February 23, 2012

ĐẠI VỆ CHÍ DỊ TÂN BIÊN – (tt)

KIẾN HÀO

Nói về nước Tề cuối thời Tề Cẩm Vương, tương ứng với triều Quý Vương nước Vệ. Bốn biển yên hòa, kinh tế phát triển kéo theo, bọn di địch rủ nhau về quy phục thiên triều, xưng phiên thần nộp cống lệ. Từ Tây Vực đến Đông Hải, từ bọn Khương Nhung phương Bắc đến những kẻ man di phương Nam đâu đâu cũng đều tung hô vạn tuế ca ngợi đời thái bình thịnh trị. So với cổ sử có kém gì đời Nghiêu Thuấn thuở trước.

Hằng năm đáo lệ, sau tiết Nguyên tiêu, bọn thái thú các nơi ở miền Mãn Châu, Đông Hải, Hồi Hột, Miêu Cương, Tây Vực…lục tục kéo về kinh đô Lâm Truy của Tề quốc để trình báo tình hình. Buổi thiết triều hôm ấy, đến lượt quan Thái trung đại phu Tôn mỗ là sứ giả Tề quốc tại nước Vệ (nếu là quận huyện phiên thuộc thì đặt thái thú trực tiếp cai trị, còn nếu là nước chư hầu thì đặt sứ giả bên cạnh triều đình) tiến lên tâu trình :

- Muôn tâu, nhờ hồng phúc của đại vương trong năm qua tình  hình nước Vệ hoàn toàn yên ổn, từ ngày đội binh thuyền Tề Nam hạ, tuần tra giương oai, thủy binh tất cả các nước đều khiếp sợ; bọn ngư dân Vệ sau nhiều lần bị bắt phải nộp tiền chuộc mạng, thuyền đánh cá bị đốt, nay không dám ra khỏi bờ quá hai dặm, toàn bộ vùng biển phía nam đều do ta khống chế. Mặc dù chưa thể làm chủ một sớm một chiều nhưng thế mạnh áp đảo của Tề ai ai cũng thấy. Còn tại kinh đô Triều Ca của Vệ, bọn cứng đầu cứng cổ xuống đường tuần hành chống Tề đều bị quân cấm vệ hoàng thành bắt giam hết, có đứa còn bị đạp vào mặt. Thần đã xuất bạc nén để ban khen cho bọn tích cực hoàn thành nhiệm vụ cùng hứa hẹn thăng chức cho chúng. Nội trong năm nay, thủy binh công xưởng  sẽ cho chiếc Đại mẫu hạm xuất bến trực chỉ Nam hải, làm thế ỷ giốc cho ngư dân Tề ta yên tâm chiếm lĩnh ngư trường…      
   
Nguyên viên sứ giả này xuất thân là kẻ võ biền, nhờ có tài binh nhung chinh chiến mà thăng quan tiến chức chứ không phải xuất thân từ khoa bảng. Các quan đồng triều đều có ý xem thường ông ta vì kiến thưcs hạn chế, nhãn quan hẹp hòi, chỉ thích khoa trương trấn áp người mà không biết che giấu ý đồ bên trong. Tề vương nhăn mặt tỏ vẻ không bằng lòng. Viên Tham tri tả thị lang biết ý tiến lên tâu :

- Muôn tâu, kể từ lúc đại vương phát động chính sách truyền bá văn hóa Đại Tề ra năm châu bốn biển, thái thú các nơi đều tích cực tài trợ cho các hoạt động phổ biến văn hóa tư tưởng (của Tề ) tại các nước chư hầu. Nay sách báo tranh truyện của Tề chiếm tỷ lệ áp đảo, trẻ con nước Vệ đâu đâu cũng đều xem Na Tra như thần tượng. Tới đây các quận huyện đều sẽ có trung tâm truyền bá văn hóa Tề gọi là Khổng Đường Hiếu Học. Đồng thời còn phát động thi đua tìm hiểu lịch sử Tề, phần thưởng là học bổng du học ở Quốc tử giám Lâm Truy, sau này thành tài sẽ được đưa trở về nước “cơ cấu” vào hàng quan lại trung ương và địa phương để làm tai mắt cho chúng ta. Ngoài ra lịch sử của Vệ cũng sẽ soạn lại cho trẻ con học tập, những phần nói về chiến tranh Tề - Vệ sẽ được cắt bỏ hoặc lược giản bớt đi. Ngoài chợ những kẻ nào xuyên tạc nói xấu hay lên án Tề xâm lược đều bị công sai Vệ bắt giam không cần xét xử để làm gương cho kẻ khác. Nay ở nước Vệ, từ bọn sĩ phu trí thức yêu nước đến tiểu lại chốn công đường, từ lão thần trí sĩ đến bọn tiến sĩ cử nhân, từ đám nho sĩ uyên thâm đến bọn thất phu hàng thịt ở Triều Ca đều rất sợ hãi, không còn kẻ nào còn dám mở miệng nói xấu triều ta. Thật là “phúc dương quang tỏ rạng muôn nhà, ơn mưa móc thấm nhuần ngọn cỏ”. Tưởng chưa bao giờ ảnh hưởng sức mạnh lịch sử-văn hóa của Tề đối với Vệ lại mạnh mẽ đến vậy.      

Nghe xong, thiên tử sẽ gật đầu không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn về hàng quan văn bên tả. Quan thị trung Bình Chuẩn  biết ý cầm hốt ngọc tiến lên :

- Muôn tâu, kể từ khi triều đình triển khai chính sách quyền lực mềm, trói buộc chặt chẽ nền thương mãi các nước chư hầu lệ thuộc vào kinh tế Tề, tập trung thu hút tối đa tài nguyên thô các nước đem về Tề để chế biến thành hàng hóa xuất ngược lại vào nước họ thì hiện nay tại thị trường nước Vệ hàng hóa Tề tràn ngập, từ hàng tiêu dùng thông thường đến hàng xa xí phẩm, từ thực phẩm chế biến đến đông y dược, từ vải vóc đến kim khí điện máy, từ thiết bị công nghệ đến kỹ thuật khai khoáng xây dựng đến nổi nay chỉ cần Tề ngưng xuất hàng hóa sang Vệ ba tháng thì kinh tế nước Vệ khốn đốn ngay. Còn ngược lại nếu Tề ta  đóng cửa khẩu không cho hàng nông thổ sản Vệ vào thì nền nông nghiệp của họ sẽ suy sụp vô phương cứu vãn. Số tiền chênh lệch giữa xuất hàng hóa bán ra cho Vệ và nhập hàng hóa vào Tề ta lên đến hàng trăm vạn lượng bạc mỗi năm. Công khố Vệ luôn thâm hụt dù liên tiếp đúc tiền ngày càng nhiều đến nỗi nay dân Triều Ca kinh đô Vệ đi chợ phải xâu tiền đeo vào cổ như mang gông.

Quan thú đất Trường Sa giáp ranh với Vệ tiến lên tâu tiếp :

- Cũng bởi do thiếu hụt nên nước Vệ đang khai thác bán non xuất thô mấy cái mỏ than ven biển cùng dăm mỏ sắt vùng biên giáp với quận Trường Sa. Thần đã cho xuất công khố thu gom toàn bộ không để một nước nào xen vào tranh mua, số lượng giá cả hoàn toàn do ta khống chế. Nay mai sẽ tiến tới đổ quân khai thác chế biến thu gom tài nguyên quý hiếm của Vệ là mấy cái mỏ nhôm phía Tây và cát hiếm phía Đông Nam chở về Tề để rèn binh khí. Còn mấy cái rẻo đất của Vệ giáp giới vùng biên, thần đã cho khoanh vùng quản lý chặt chẽ với chiêu bài thuê mướn dài hạn với giá rẻ như cho không, chỉ tốn vài trăm lượng bạc lót tay bọn quan địa phương. Đất ấy dù mang danh là của Vệ nhưng không còn một tên dân Vệ nào dám léo hánh tới gần. Từ kho bãi đến trường học, từ công trường khai thác đến cơ quan giám quản đều treo cờ đại Tề …  

Nghe thái thú Trường Sa báo cáo xong, Tề vương nhìn quan Thái bảo kiêm Thượng thư Bộ Lễ hàm chánh nhất phẩm đứng đầu triều, phán:

-Chuyện ta bảo ngươi đã làm đến đâu ?

-Muôn tâu, năm trước nhân tiếp sứ giả của Vệ Vương là Phạm mỗ, thần cũng đã tuân theo ý chỉ của đại vương, vừa vuốt ve vừa hăm dọa khiến cho hắn phải tâm phục khẩu phục mà cam kết từ nay phải xem nước Tề như phụ mẫu không dám có ý chi khác. Hai nước cũng đã âm thầm ký kết mật ước định lại cương vực, theo đó Vệ Vương nhượng bộ cho ta khá nhiều về lãnh thổ lãnh hải, nhất là mấy cái hải đảo ngoài Nam Hải cùng quyền cai quản vùng biển ấy, Vệ cũng đã cam kết chỉ ra tuyên ngôn phản đối chiếu lệ cho yên lòng dân còn ngoài ra vẫn ủng hộ nước Tề ta trong việc tranh chấp quyền sở hữu biển ấy với các nước khác. Đổi lại là sự cam kết hổ trợ của Tề trong việc trấn áp bọn phản loạn trong nước Vệ và ủng hộ chính sách chuyên chế toàn trị của Vệ Vương. Tóm lại, họ không cần ta viện trợ kinh tế, không cần cung cấp vũ khí, lương thực, đạn dược hay chuyển giao kỹ thuật công nghệ mà chỉ cần Tề dùng thế mạnh quân sự ngoại giao làm rào chắn cho Vệ trước sự cô lập của các lân bang giống như Cao Ly, hầu bảo toàn ngai vàng và sự giàu sang phú quý của vua tôi nước Vệ. Nước ấy nay xem như đã nằm trong ống tay áo đại vương rồi vậy.  

Nghe xong, Tề Cẩm Vương hết sức hài lòng, ngã người tựa vào ngai vàng tõ vẻ thư thái rồi thong thả buông lời vàng ngọc :

-Nước Vệ sở dĩ nhỏ bé mà lại nhận được sự quan tâm đặc biệt của thiên triều là vì cái vai trò vị trí địa – chính trị đặc biệt của nó, nhất là cái vũng nước nhỏ mà Vệ gọi là biển Đông, nơi hầu hết thương thuyền các nước từ Nam lên Bắc, từ Tây sang Đông đều phải hải hành qua đó. Chiều dài bờ biển Vệ trải đến hàng ngàn dặm, ví thử có nước nào manh tâm độc chiếm biển ấy làm của riêng, thử hỏi liệu có chịu nổi sự quấy phá của Vệ từ đất liền hay không. Vả chăng nay ta đã áp đặt được sự lệ thuộc lên nó về mọi mặt, há chẳng phải là đã đạt được điều mà các đời tiên vương mong mỏi hay sao? Ta không cần phải dụng binh điếu phạt làm náo động dân tình, hao tổn quốc khố, tạo cớ cho bọn bất mãn trong nước nó tạo phản gây mầm loạn, tránh lặp lại sai lầm của các đời trước. Tuy Tề là một nước lớn so với Vệ, có thể chiếm được nhưng không thể giữ được do khác biệt về thủy thổ, lam sơn chướng khí, phong tục tập quán, nhất là tinh thần quật khởi của dân xứ đó, dù có lấy số đông áp đảo chiếm được thì rốt cục cũng phải chấp nhận hao binh tổn tướng, nhục nhã mà lui binh về. Bài học đó bọn ngươi nên dạy cho con cháu thuộc nằm lòng.

Đối với việc xin thanh viện của Vệ, bọn ngươi cần phải hết sức cẩn thận đừng để bị lôi kéo vào ý đồ riêng. Ta chủ trương chỉ hư trương thanh thế chứ tuyệt nhiên không động binh, dứt khoát dùng kế sách tằm ăn lá dâu và bẻ đủa từng chiếc để phá thế hợp tung liên hoành chúng nó như sách lược Trương Nghi Tô Tần trước kia. Ta nhắc thêm cho bọn ngươi nhớ: tuyệt đối trong bang giao không nhắc đến hai tiếng nhân quyền, dù có thấy bọn quan lại, công sai nước Vệ dùng cực hình lạm sát dân nó cũng đừng manh động. Hãy lấy mồi lợi mà dử (quan lại) bọn chúng, hứa hẹn bảo toàn cái địa vị chúng đang có được cho đời đời con cháu chúng cùng được hưởng, cam kết sẽ ra sức bảo vệ chúng nó nếu bị dân Vệ nổi lên lật đổ hoặc bị nước thứ ba uy hiếp, vạn nhất nếu có xảy ra biến cố thì nước Tề sẽ là quê hương thứ hai của chúng. Cái đó gọi là lấy mỡ nó rán nó. Phận sự làm sứ giả của các ngươi ngẫm ra cũng không có chi là khó, chỉ là thường xuyên vỗ về cho bọn chúng yên lòng mà ra sức báo đáp thiên triều, chấp nhận làm rào giậu cho Tề quốc chúng ta, cứ như vậy kiên trì nhìn về toàn cục tất sẽ có lúc Vệ đương nhiên trở thành một quận huyện nội thuộc của Tề ta chứ không còn là một nước chư hầu triều cống hàng năm nữa. Binh pháp Tôn Tử nói lấy vô chiêu để chế thắng hữu chiêu là như thế.

Nghe Tề vương phán bảo xong, các quan chỉ còn biết cúi đầu bái phục và tung hô vạn tuế, vạn vạn tuế !

Mùa Đông năm Tân Mão, nước Tề cử viên quan đại thần Bộ Lễ làm sứ giả đến viếng thăm triều đình nước Vệ để tỏ tình hữu hảo lân bang và khẳng định lại tình gắn bó keo sơn đã hứa giữa hai nước. Trong lễ tiếp rước sứ bộ Tề quốc thật long trọng, dân chúng nước Vệ bỗng há hốc mồm kinh ngạc khi thấy lá đại kỳ nước Tề có thêm hình tiểu long vốn là biểu trưng hồn thiêng sông núi của Vệ quốc. Hay chuyện, một vị ẩn sĩ đất Triều Ca, kinh đô nước Vệ, vuốt râu cười mà rằng: “ Đó chỉ là một bước thăm dò, nắn gân bọn dân Vệ xem phản ứng ra sao. Rồi đây sang năm mới sẽ còn nhiều trò hay hơn nữa, những việc hệ trọng quốc gia đại sự do bọn mưu sĩ bàn bạc chốn thâm cung mà bọn dân đen nước Vệ chỉ có thể biết được khi sự đã rồi, hàhàhà…”.  

( Nguyên Tiêu Nhâm Thìn 2012 ) 

Monday, November 21, 2011

QUỐC NẠN

Lathiews

Tham nhũng trong bộ máy cầm quyền Việt Nam và tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Cộng là hai đề tài thuộc loại “ phạm húy ” mà các biên tập viên của hơn 700 tờ báo quốc doanh hiện nay ít dám đề cập tới. Còn độc giả của các báo mạng ngoài “định hướng” thì lại không phải là số đông vì người đọc báo lề trái phải hội đủ một số điều kiện, nhất là kỹ thuật “leo tường”.

Có lần một tờ báo quốc doanh đưa tin từ một hãng truyền thông độc lập, thống kê hơn 40% người dân được phỏng vấn, cho là lĩnh vực cảnh sát giao thông đứng đầu về tệ tham nhũng. Ngày hôm sau bản tin bị gỡ bỏ và biên tập viên mất chức. Còn vụ những người yêu nước ở Hà Nội bị bắt giam vì dám tuần hành chống Trung Quốc thì ai ai cũng biết, dù lý do nhà cầm quyền đưa ra là “tụ tập đông người” trái phép (?), một lý do hết sức mơ hồ, tùy tiện và vi hiến.       

Kể từ “ đổi mới ” đến nay, những cụm từ  như “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giai cấp”, “ai thắng ai”… xem chừng cũng phai lợt trên mặt trận tuyên truyền chính thống, mà các cán bộ hình như cũng hơi ngượng mồm khi đăng đàn phát biểu, bởi vì sự tương phản hình ảnh của các diễn giả béo tốt nọng thịt và quần chúng công nông lao động tự nó cũng nói lên nhiều điều, khiến cho những lời lẽ hô hào không còn có sức thuyết phục.

Trở lại với đề tài tham nhũng, những năm 70, 80 thế kỷ trước, ở phía Nam có một câu vè dân gian rất phổ biến :
Công an , thuế vụ, kiểm lâm
Trong ba thằng đó, nên đâm thằng nào…
Kính thưa quý vị đồng bào
Trong ba thằng đó, thằng nào cũng (đáng) đâm.
Thực ra những kẻ đứng đường, đứng trạm đó cũng phải bỏ công một nắng hai sương (!), dầm mưa dãi gió … mới có tiền mãi lộ, mà tiền đó cũng đâu phải “ăn” hết một mình, còn phải cống lên trên chớ bộ, nhưng vì tiền đó móc trực tiếp từ hầu bao người dân nên người ta xót, sinh ra thù oán; đó là đồng tiền tham nhũng ở cấp vi mô, nôm na gọi là “tôm tép”.

Còn có nhiều, rất nhiều những phương thức tham nhũng ở cấp vĩ mô, tinh vi hoành tráng hơn gấp ngàn lần, gây ra tác hại rất lớn, vừa tạo ra bất công xã hội vừa gây khủng hoảng mất lòng tin. Đạo đức suy đồi; văn hóa , giáo dục, y tế… xuống cấp trầm trọng, thái độ vô cảm trong cộng đồng, các mối quan hệ trong gia đình và xã hội bị chi phối bởi đồng tiền. Tham nhũng bây giờ là chuyện thường, không tham nhũng mới lạ.

  1. Đầu tư công:
Đầu tư công lấy tiền từ đâu ? Từ phát hành công trái, vay ngân hàng trong ngoài nước, các tổ chức tín dụng quốc tế hay từ phân bổ ngân sách… xét cho cùng cũng là từ tiền đóng góp của người dân bởi vì nguồn chi trả cũng trích từ ngân sách, nhà nước chỉ là người đại diện cho dân chớ nhà nước đâu phải là một tổ chức kinh tế. Với cơ chế hiện nay, nhà nước vừa là chủ đầu tư, vừa thi công, quản lý, giám sát giống như một người vừa là cầu thủ vừa là trọng tài.

Nhiều người vẫn còn nhớ phong trào xây dựng các nhà máy xi măng lò đứng với thiết bị và công nghệ lạc hậu của Trung Quốc năm nào gây ô nhiểm môi trường khủng khiếp, hay việc phân bổ xây dựng các nhà máy đường duy ý chí theo cơ chế mặt trận, cục bộ bất kể việc nhà máy phải gắn kết với điều kiện thổ nhưỡng, vùng nguyên liệu địa phương dẫn đến việc phá sản, di dời hàng loạt nhà máy sau đó. Những đổ vỡ, thất bại đầu tư công gây thiệt hại cho ngân sách quốc gia đó cũng không quy trách nhiệm cho cá nhân nào, vị phó TT kiêm bộ trưởng Nông nghiệp NCT thời đó nay cũng đã về hưu yên lành rồi.

Vụ việc Vinashin phá sản vẫn còn tính thời sự nóng hổi về đầu tư công: ‘quả đấm thép’ về công nghiệp đóng tàu cả nước đã vung tay đầu tư tràn lan bất kể hiệu quả, bất kể chỉ đạo từ cấp trên hay tham mưu từ cấp dưới. Đầu tư vung vít nhờ vốn vay thành hình do phát hành trái phiếu và vốn vay các ngân hàng trong ngoài nước do chính phủ bảo lãnh, bây giờ nhiều ý kiến cho rằng chỉ còn một cách khắc phục hậu quả giùm cho Vinashin là nhà nước in thêm tiền và ‘bí mật’ bơm cho các ngân hàng để trả nợ thay ( 7 ) . 

Đầu tháng 11/2011, khi đài BBC loan tin tập đoàn Vinashin và 21 công ty con bị chủ nợ khởi kiện tại tòa án ở London, nội dung liên quan đến việc Vinashin “xù” khoản nợ 600 triệu USD đã đến hạn trả nợ đợt 1 năm ngoái thì một quan chức cấp cao của chính phủ VN thản nhiên tuyên bố: chuyện Vinashin bị kiện không bất ngờ vì trong kinh doanh nợ nần tranh chấp là bình thường. Vâng, trong kinh doanh nợ nần là chuyện bình thường nhưng giựt nợ thì không bình thường chút nào, nhất là ở tầm cỡ quốc gia như Vinashin.

Hai năm trước (2009) lại xảy ra hiện tượng các địa phương đua nhau xây dựng cảng biển, bất chấp sự không đồng bộ về kết nối giao thông hạ tầng và dịch vụ hậu cần phù hợp mà điển hình là cảng nước sâu Thị Vãi – Cái Mép, đã không giải cứu được cho các cảng cũ nội thành đang chật chội quá tải, mà lại trở thành gánh nặng thêm cho nợ công không biết đến bao giờ mới thu hồi được vốn .

Câu chuyện thời sự đầu tư công hiện nay là hiệu quả kinh tế của dự án đường cao tốc Sài Gòn – Long Thành – Dầu Giây, mà theo khảo sát của một chuyên gia kinh tế ( 1 ) thì chi phí làm đường của Việt Nam đắt gấp ba lần Mỹ ( 18 triệu USD / 1 km so với 5,6 triệu) , chuyện thật như đùa này đã đẩy tấn tuồng bi hài kịch nhận hối lộ hai triệu đô của Huỳnh Ngọc Sĩ – Đại lộ Đông Tây lùi vào sau sân khấu. 

Đầu tư công trong lãnh vực giao thông với cơ chế quản lý giám sát lỏng lẻo hiện là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng tha hồ nảy nở. Mặc dù gọi là đầu tư công nhưng không phải toàn bộ nguồn vốn đều có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thường chỉ 30-40 phần trăm tổng mức đầu tư, gọi là vốn mồi hay vốn đối ứng, phần còn lại từ các nguồn khác như huy động trái phiếu, vay ODA, huy động vốn trong ngoài nước v.v..

Chính vì hình thức vay vốn nước ngoài trả chậm nhiều năm về sau, lãi suất thấp hoặc không lãi để đầu tư làm hạ tầng khiến người dân ngộ nhận, mơ hồ về tính hiệu quả và sự lãng phí, tốn kém của các công trình. Phải, tham nhũng đầu tư công ăn vào tiền vay mượn, đội chi phí lên nhiều lần thì cũng đâu có móc túi của  bà con đồng nào như bọn đứng đường, đứng trạm kia đâu ?  Nhưng xin nhớ cho rằng vay tức là … mượn, mượn tức có ngày phải trả, trả bằng ngân sách tức tiền thuế của dân, đời cha chưa trả thì đời con, đời cháu è cổ ra trả kỳ hết. Dù có bới móc ông bà lên chửi cũng phải trả chớ không có chuyện quỵt đâu nhé.

Theo cựu Bộ trưởng Trần Xuân Giá, nếu ngưng khởi công toàn bộ dự án đầu tư công mới kể từ 2012 thì còn phải mất tới 8 năm nữa mới đủ ngân sách để hoàn tất các dự án đầu tư công đang dở dang ( 2 ). Hiện mỗi năm, ngân sách phải trích từ 14-16 % để chi trả nợ, bằng toàn bộ số tiền chi cho giáo dục, gấp đôi số tiền chi cho y tế, hai chục lần chi cho khoa học công nghệ ( 3 ). Cũng theo ông Giá, điều đáng lo không phải là nợ công vượt ngưỡng cho phép (hiện là 57% GDP) mà là khả năng trả nợ của VN cực kỳ thấp.

Trước đây có một dạo báo chí làm ầm ỉ về các khoản chung chi gọi là tiêu cực phí trong ngành XD, chiếm tới 30%  chi phí công trình (lobby dự thầu hàng chục cửa, lót tay ban bệ giám sát nghiệm thu công đoạn, thủ tục giải ngân thiên la địa võng…) nhưng cuối cùng đâu cũng vào đó. Chắc có lẽ mọi người tự an ủi mình: cái nước VN ta nó thế. Hay: cứ để cho mấy ‘thằng’ mập nó làm, còn hơn cho mấy ‘thằng’ ốm nhảy vào ăn còn bạo hơn ?

Lại có lần các nhà ‘cải cách’ kêu gọi bãi bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, để các quan chức Bộ chỉ chuyên tâm làm công việc quản lý nhà nước, thực hiện chức năng hành pháp đúng nghĩa, chứ không sa đà ôm đồm, thò tay quá sâu vào lĩnh vực bên dưới. Hề ! Nếu vậy thì lấy đâu sắm xe ngàn trâu, thẻ hội viên Golf Club vài chục ngàn đô, biệt thự hoành tráng trong khu đô thị cao cấp, đi du hí mua sắm nước ngoài…

Theo thông tin từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương  ( 2 ) thì các dự án đầu tư công năm 2012 mà các tỉnh, bộ ngành trình lên chính phủ lên tới 300 tỷ USD, tức gấp 3 lần quy mô GDP hiện nay ( 105 tỷ USD). Nghĩa là cái bánh đầu tư công cũng còn… thơm lắm, bất chấp chủ trương siết chặt chống lạm phát của nhà nước VN; bất chấp bài học ‘kích cầu’ chống suy thoái ba năm trước, đã điên cuồng in tiền như in …giấy, bơm vào lưu thông và đầu tư công khiến lạm phát tăng vọt đến nay còn để lại hậu quả.

Nhà nước còn quản nhiều ‘quả đấm thép’ khác như các tập đoàn, tổng công ty dầu khí, ngân hàng, viễn thông, điện lực, hàng không, hàng hải, than & khoáng sản… những doanh nghiệp nhà nước được xem như con cưng của chế độ, được hưởng tất cả mọi ưu đãi về  phân bổ vốn, lương, giá, thuế, tín dụng, tiếp cận thông tin, hoạch định chính sách  … nhưng cũng là nơi mà các nhóm lợi ích ( interest groups ) gồm quan chức – tư bản đỏ liên kết thành một mạng lưới chặt chẽ, tinh vi dưới cái ô ‘ kinh tế quốc doanh chủ đạo’ hoặc ‘ kinh tế thị trường nhưng có định hướng XHCN’.

Cũng bởi cái “ định hướng ” phi luật này mà chính phủ đã chỉ đạo cho Điện lực Việt Nam hạch toán các khoản lỗ kinh doanh vào trong … giá thành. Một sự ưu ái quá mức, vô tiền khoán hậu, nghĩa là người tiêu thụ điện cả nước phải gánh chịu hậu quả quản lý sản xuất kinh doanh tồi của mấy ông quan nhiệt tình nhưng ngu dốt. Trong khi tất cả những ai làm kinh tế đều biết sự nghiệt ngã của cán bộ thuế khi kiểm tra giám sát báo cáo cáo thuế của các doanh nghiệp, nhất là khoản chi phí giá thành, càng xuất toán càng nhiều càng tốt dù có những khoản chi phí được xem là hợp lý nhưng không hợp lệ.

Rõ ràng sân chơi kinh tế của VN hiện không thể gọi là công bằng được nếu nhà nước cứ bảo hộ mãi các doanh nghiệp nhà nước kiểu như cái “ ô ” để các nhóm lợi ích mặc tình thao túng làm cho bất công xã hội trong thu nhập và đời sống cứ tăng thêm mãi, khoản cách  giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân trong nước ngày càng xa vời vợi, và khoản  cách GDP giữa VN và các nước trong vùng Đông Nam Á cũng vậy.
 
Chúng ta không quá ngoa ngôn, cay nghiệt như Nguyễn Ngọc Già khi nói “…vì tôi quá ức cho tôi, cho người dân đang ở trong nước, bởi lẽ chắc chắn, những người dân cô đơn, trơ trọi, lẽ loi và yếu đuối tại đất nước bi thương này, sẽ tiếp tục đưa đầu ra gánh cái món nợ khốn nạn của bọn bất lương mang danh nghĩa ‘ kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo…” khi nói về sự phá sản tất yếu của “Vinasink” (9).Nhưng cũng thật chua chát khi nhìn hai hình ảnh thời sự tương phản nhau như nước với lửa:  sân Golf & khu nghỉ dưỡng cao cấp cho giới doanh nhân quan chức và trẻ con lem luốc mò cua bắt ốc trong mùa lũ ở miền Tây. Nếu hàng chục ngàn ngôi mộ liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn có thể cất lên tiếng nói của mình thì họ sẽ nói gì ? 



 Ảnh 1 : Khu sân Golf & nghĩ dưỡng cao cấp Hà Tây


Ảnh 2: Lam lũ trẻ con miền tây

  1. Khai thác tài nguyên :

Ngày trước những đứa trẻ lười học thường hay bị mắng ‘mày sau này chỉ có nước cạp đất mà ăn !’. Nay nhờ cạp đất mà khối kẻ ăn nên làm ra, chỉ sợ không có đất để cạp. Đất đây phải hiểu rộng ra là tài nguyên nằm dưới lòng đất ở dạng nguyên khai (thô) hàng triệu năm do thiên nhiên tạo lập chớ không phải là sản phẩm của một con người hay chế độ nào. Tài nguyên khoáng sản bóc tách đi rồi thì…thôi, không bao giờ tái tạo lại được nữa.

Khi Việt Nam cho Trung Quốc đổ thiết bị, cơ giới, nhân công người Hoa xuống Tây Nguyên khai thác mỏ nhôm Lâm Đồng, cả một khu vực rộng hàng ngàn hecta bị san bằng thành bình địa không còn một ngọn cây cọng cỏ, còn hơn vó ngựa quân Nguyên năm nào, biết bao nhiêu nhân sĩ trí thức đã làm thỉnh nguyện thư can gián, thậm chí lập ra cả trang web để đăng những ý kiến phản biện của những tấm lòng yêu nước.

Cảm động nhất là ý kiến thiết tha đề nghị nhà nước hãy xem tài nguyên kia như của để dành cho con cháu, khi nào đất nước tiến bộ đủ khả năng khai thác chế biến thì hãy làm , chớ đừng xuất thô, bán non như thế này, vừa hủy hoại môi trường vừa ảnh hưởng cuộc sống hàng triệu người, vừa làm phức tạp tình hình an ninh quốc phòng. Còn hiệu quả kinh tế thì đã quá rõ: từ lỗ tới lỗ chớ đừng mong huề vốn.

Trong cơ cấu xây dựng giá thành quặng nhôm sơ tuyển để so sánh với giá bán, để tăng thêm sức thuyết phục trước Quốc Hội, người ta cố tình ém đi chi phí vận chuyển. Giờ thì cả nước mới ngớ ra: không có cây cầu, con đường nào chịu nổi tải trọng của các xe chở quặng từ nhà máy sơ chế xuống đồng bằng, ra cảng biển chở về Tàu. Nếu bỏ tiền ra làm đường, làm cầu riêng thì biết bao giờ TKV mới thu hồi vốn ? Nên giờ nhà nước Việt Nam chọn giải pháp nâng cấp cầu đường hiện hữu bằng ngân sách quốc gia, nghĩa là người dân phải bỏ tiền ra làm đường cho xe chở quặng chạy chung với xe dân dụng. Đồng thời miễn toàn bộ thuế suất (bằng 0%) cho alumina xuất khẩu sang Tàu. 

Tại mỏ than Mạo Khê – Đông Triều- Quảng Ninh, từ ngày 13 đến 17/2/2010 tức 30 Tết đến mùng 4 Tết Canh Dần, những người có trách nhiệm đã ‘thả lỏng’ cho than tặc tha hồ điều xe cộ máy móc vào khai trường hoành hành suốt ngày đêm, chở đi 28 ngàn tấn than nguyên khai, tương đương 19.500 tấn than sạch trị giá gần 17 tỷ VNĐ. Vậy mà tại tòa, tất cả đều được hưởng án treo (!), chỉ có một con chốt thí lãnh tù 5 năm, nhưng chắc chỉ thọ án 3 năm là cùng ( 4 ). Hề ! Tất cả đều ngầm biết số than đó chở đi đâu về đâu , bất chấp hàng rào kiểm tra giám sát dầy đặc ở cửa khẩu hai nước. 



Ảnh 3 : Quặng tập kết bên kia biên giới cao như núi

Mỏ sắt Quý Xa của Lào Cai và mỏ sắt Nà Lũng Cao Bằng là hai điểm nóng về khai thác lậu và vận chuyển quặng bất hợp pháp ( 5 ) sang bên kia biên giới, làm chảy máu tài nguyên quốc gia trầm trọng và đẩy tình trạng tham ô móc ngoặc lên thành quốc nạn, bất chấp lời kêu gọi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang yêu cầu đừng tiếp tục xuất quặng thô (6). ‘ Ông Trương Tấn Sang nói gì thì mặc ông nói, chuyện xuất khẩu quặng là việc của mấy quan Lào Cai và của mấy quan các tỉnh khác, miễn là cái túi ‘ ba gang’ của họ căng phồng thêm vì theo cách họ và gia đình họ tính toán thì…hiện còn vơi lắm’ ( 5 ) .

Bất bình vì những đoàn xe ‘ quặng tặc ’ chở quá tải trọng cày xới nát đường, gây khói bụi và ồn ào kinh khiếp bất kể ngày đêm, cũng như thái độ lơ là của chính quyền, ngày 17/9/2011 người dân vùng biên Lào Cai đổ chướng ngại vật ra đường cản xe chở quặng. Trước thái độ hống hách, vẩy súng đe dọa của một viên quan ‘ bảo tiêu’ tự xưng Công an, người dân phẩn nộ hè nhau …đốt luôn chiếc xe ô tô của ông này ( 6 ). 


Ảnh 4 : Xe ‘bảo tiêu’ bị đốt cháy

Theo báo cáo của Sở Công thương Lào Cai “… từ đầu năm 2011 đến nay ngành Công thương và ngành Giao thông vận tải đã thẩm định và phê duyệt 28 phương án vận chuyển khoáng sản cho 21 đơn vị, với tổng khối lượng là 1.379.224 tấn quặng, bao gồm quặng sắt, quặng mangan, stenđồng, xỉ đuôi tuyển đồng… được khai thác tại tỉnh Lào Cai và các tỉnh trong khu vực để xuất khẩu sang Trung Quốc. Ngoài ra còn cho phép vận chuyển một số loại khoáng sản cho các cơ sở chế biến sâu trong nước. Đến hết tháng 8/2011, các đơn vị đã vận chuyển được gần 1 triệu tấn khoáng sản cho các cơ sở chế biến trong nước và xuất khẩu sang nước bạn Trung Quốc để đổi lấy than cốc, than mỡ phục vụ nhiệm vụ sản xuất công nghiệp trong nước. Dự kiến, trong năm 2011 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh qua cửa khẩu Quốc tế Lào Cai sẽ đạt khoảng 1,7 tỷ USD ”. (10)
Đọc báo cáo thật phấn khởi hồ hởi nhưng chỉ cần làm một bài toán nho nhỏ, số chênh lệch tải trọng giữa thực chở và trên sổ sách làm thủ tục hải quan ( 40 tấn so với 25 tấn ) của một chuyến xe là đủ biết lượng giá trị thất thoát mất đi là bao nhiêu. Tiền đó đương nhiên là bọn đầu nậu không ăn được một mình, mà dẫu có Bao Công điều tra chắc cũng chịu thua bởi quy trình khai thác, vận chuyển và xuất quặng (lậu) qua biên giới đang vận hành trơn tru như một cổ máy đang vào guồng…

Cũng giống như sự liên minh ma quỷ giữa lâm tặc-lâm trường-kiểm lâm khiến rừng Tây Nguyên cứ thu hẹp dần rồi mất hẳn, những người có trách nhiệm trước việc thất thoát quặng luôn luôn có một lý do ‘khách quan’ là địa bàn rộng lực lượng mỏng không thể kiểm tra giám sát hết, dù những đoàn xe chở quặng chạy ầm ầm trên đường suốt ngày đêm, giữa thanh thiên bạch nhật qua những thị trấn vùng biên như chốn không người.

Nguồn tài nguyên không phải là vô tận. Điển hình là các mỏ than ở Quảng Ninh. Nếu cứ hăm hở xuất than sang Trung Quốc ồ ạt như hiện nay thì ngày mà nhà máy nhiệt điện Uông Bí phải nhập than từ Úc chắc cũng không còn xa. Giống như gỗ rừng: từ chỗ là quốc gia xuất khẩu gỗ, nay Việt Nam phải nhập trên 80% gỗ nguyên liệu từ các nước. Tài nguyên cạn kiệt nhưng không ai phải chịu trách nhiệm , chỉ làm giàu cho một thiểu số người.       

  1. Đất đai :

“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”, chỉ mười bốn con chữ mà gây ra ‘bể oan cừu’ suốt mấy chục năm nay. Một sản phẩm của nhà nước XHCN Việt Nam, độc nhất vô nhị trên thế giới ! Bằng khoán đất XHCN (sổ đỏ) của người dân ghi rất rõ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nên nếu có nhu cầu phát triển sân golf, khu du lịch, khu nghĩ dưỡng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư cao cấp, khu thương mại … nhà cầm quyền chỉ cần ra một quyết định thu hồi quyền sử dụng đất là xong.

Bất kể đất đó do ông bà tổ tiên khai phá thành thục, để lại cho con cháu; bất kể đất đó có giấy tờ mua bán hợp pháp từ đời Tây, đời Ngô Đình Diệm; bất kể đất đó do tích cóp tằn tiện hằng chục năm trời ăn mắm mút giòi mới mua được; bất kể cuộc sống mới của hàng triệu người có đất bị thu hồi không bao giờ tái tạo được như cũ. Kẻ chịu thiệt nhất chính là giai cấp nông dân, lực lượng chính của cuộc ‘cách mạng’ vừa qua.
 
Kể từ khi chính quyền trung ương phân cấp quản lý cho địa phương, trong đó có lĩnh vực quản lý đất đai thì các nhóm lợi ích quyền-tiền, liên minh quan chức-doanh nghiệp lại càng phát triển như nấm mọc sau mưa, bởi vì mối lợi do đất đai mang lại quá lớn, bỏ ra bạc chục thu lại bạc trăm mà lại được nấp dưới cái ô chính đáng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo mỹ quan đô thị.

Nguyên Thứ trưởng TN&MT Đặng Hùng Võ, chuyên gia của World Bank ( WB ), phân tích  “ cơ chế quản lý đất đai ở Việt Nam bao hàm nguy cơ tham những cực kỳ lớn. Đó là cơ chế được mô tả một cách dễ hiểu là nhà nước bằng một quyết định hành chánh lấy đất của một hay một số người giao cho người khác, tiền đất đền bù và tiền thu từ việc giao đất cũng do nhà nước tự quyết định ” ( 8 ).

Thực ra chuyện chuyển đổi công năng sử dụng đất đai theo hướng hợp lý, vì lợi ích cộng đồng thì ở bất cứ nước nào cũng có vì đó là xu hướng tất yếu của một xã hội phát triển, tuy nhiên không thể nhân danh lợi ích chung để gây thiệt hại đến quyền lợi của một thiểu số. Đó là công bằng xã hội. Nghịch lý rất rõ ràng là kẻ đi mua lại có quyền ấn định giá mua (rẻ như bèo) , còn người (bị cưỡng) bán thì lại không có quyền ra giá bán.

Ảnh 5 : Một dự án khu dân cư bị bỏ hoang

Tham nhũng, bất công trong quản lý đất đai đẻ ra bất ổn xã hội, đào sâu hố phân cách giàu nghèo, làm mất lòng tin và đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Làn sóng người ‘dân oan’ kéo nhau đi khiếu kiện ngày càng đông, áo sứt vai quần hai ba miếng vá giữa chốn thị thành có lẽ làm mất thể diện quốc gia nên là một trong nhiều lý do khiến nhà nước ra nghị định cấm khiếu kiện đông người. Đó không phải là một giải pháp vì dân. Tham nhũng gây ra bất công dẫn đến biểu tình, thay vì giải quyết triệt để nguồn gốc gây ra tham nhũng thì lại cấm… biểu tình. Đó là đơn thuốc của một ông bác sĩ tồi.

Luật doanh nghiệp dù không công khai thừa nhận sai lầm trong cải tạo công thương nghiệp trước kia nhưng cũng đã giúp cởi trói khi công nhận quyền tư hữu của cá nhân và tập thể trong sản xuất kinh doanh, còn Luật đất đai vẫn như vòng kim cô siết chặt nông dân và những người có đất nông nghiệp ngay chính trên mảnh đất của họ. Thực ra chỉ cần bỏ đi 14 từ ngữ oái oăm kia đi, và thay bằng cụm từ như sau : ‘nhà nước công nhận và bảo hộ quyền tư hữu đất đai chính đáng của người dân’ thì những mâu thuẫn, bất công sẽ biến mất gần hết và theo đó tình trạng tham nhũng đất đai cũng không còn.

Nhưng đòi hỏi điều đó có khác gì bắt loài chó sói phải ăn chay !

( 11/2011 ) 

  1. http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/10/lam-duong-viet-nam-dat-gap-3-lan-my/
  2. http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/su-bat-luc-cua-trung-uong-su-vo-hieu.html#more
  3. http://danluan.org/node/10476
  4. http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2011/09/cưu-giam-doc-than-mao-khe-duoc-tra-tu-do-tai-toa/
  5.  
  6. http://boxitvn.blogspot.com/2011/10/quang-quy-tiep-tuc-chay-tu-lao-cai-sang.html#more
  7. http://danluan.org/node/8592#comment-44256
  8. http://boxitvn.blogspot.com/2011/06/can-nguyen-tham-nhung-at-ai-o-viet-nam.html#more
  9. http://danluan.org/node/10550
  10. http://boxitvn.blogspot.com/2011/09/chay-mau-quang-sang-trung-quoc-xe-pha/html