Monday, November 29, 2010

Chí Phèo Đông Bắc Á

LATHIEWS

     1. Chí Phèo là tên nhân vật chính trong một truyện ngắn có tựa cùng tên của nhà văn Nam Cao , ra đời năm 1941, thuộc dòng văn học hiện thực phê phán, cốt truyện lấy bối cảnh ở một miền nông thôn đồng bằng Bắc bộ trước năm 1945. Đây là một tác phẩm văn học nổi tiếng, đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, mục đích lên án chế độ thực dân phong kiến đã bần cùng hóa người dân Việt Nam. Dưới ngòi bút miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật thật sắc sảo, sinh động của Nam Cao; Chí Phèo đã trở thành biểu tượng điển hình cho những kẻ nát rượu, lưu manh, tha hóa biến chất, sống dưới đáy xã hội, chuyên nghề gây gỗ và ăn vạ; kẻ đã biết tận dụng tối đa ưu thế " cùi không sợ lở " của mình và khai thác tâm lý ngán ngại va chạm, cầu an của số đông. Do đó, mặc dù ý đồ của người viết ( và quan điểm của nhà nước nhân dân ) là mong muốn có sự cảm thông, chia sẽ cho một mảnh đời bất hạnh để qua đó lên án chế độ thực dân thì ngược lại, đa số người đọc lại có cảm giác khinh bỉ, ghê sợ nếu không muốn nói là đầy ác cảm với nhân vật này. Một phần bởi vì nó gợi nhớ lại một thời kỳ đau thương qua chưa lâu trước đây: nghèo là một thành tích tốt, người ta hãnh diện khoe mình nghèo; còn giàu là một tội lỗi vì chỉ có bóc lột mới giàu được (!) ; lý lịch trong sạch phải mạt ba đời, làm gà phải cắt kéo, người buôn bán gọi là con buôn. Nếu gọi Chí Phèo là sản phẩm của chế độ bất nhân, người bóc lột người thì bảy mươi năm sau, hình ảnh Chí Phèo không những không mất đi mà còn nhân bản lên gấp hàng trăm, hàng ngàn lần với những biến thái độc đáo thời kinh tế thị trường; từ một tên lưu manh nhà quê đã trở thành một thằng điếm chợ chuyên nghiệp.

     2. Nơi tôi ở cũng có một con cháu Chí Phèo, hay gọi là Chí Phèo đệ tam, đệ tứ cũng được. Gia đình Chí tạm trú trong một phòng trọ xập xệ đầu con hẽm lớn, buổi chiều vợ bán cháo lòng cho dân lao động chiếm hết nữa lòng đường, bổn phận của Chí chỉ là khuân dọn bàn ghế nếu còn tỉnh táo, còn ngoài ra thì tha hồ say sưa, mượn rượu để chửi đổng thiên hạ, nằm lăn ra giữa hẽm mà cản trở xe cộ, người qua lại và nhất là giả say để hù dọa xin đểu…tiền. Khoái nhất là được va quẹt để ăn vạ tiền cơm thuốc. Sở dĩ Chí quen thói, được nước làm tới là vì hắn nắm bắt được tâm lý sợ phiền phức rắc rối của nhiều người, không muốn dây dưa với một kẻ liều mạng; đụng với hắn như chén kiểu đụng với gáo dừa; chỉ chuốc thêm bực tức nên đa số đều chọn giải pháp thua thiệt về phần mình ( nhiều khi phải bồi thường lãng xẹt ) để xin hai chữ bình an. Bên trong hẽm có mấy cơ sở may gia công và hàn tiện,chịu hết nổi với mấy màn quấy rầy của hắn mới bàn nhau đưa Chí vào nề nếp bằng cách tuyển dụng làm… bảo vệ, ấy gọi là dĩ độc trị độc. Nhưng chỉ một thời gian ngắn thì Chí nhận ra rằng làm bảo vệ không khoái vì bị gò bó đủ thứ, không bằng làm Chí … Phèo nên sau đó thì mèo lại hoàn mèo, cốt khỉ hoàn cốt khỉ. Nay thì người dân chỉ còn mong sao cho hắn sớm bị xơ gan, đi theo Lưu Linh để bà con được nhờ. Mà ngày đó chắc cũng chẳng còn xa vì hiện hai chân hắn đã bị phù thủng rồi. Dù sao thì cũng có thể tha thứ cho Chí Phèo này được, vì hắn chẳng có dã tâm giết chóc gì ai, cũng không làm gì phạm pháp đến mức xử lý theo luật hình sự, chủ yếu chỉ gây rối cho mọi người nhớ ta đây là …Chí Phèo. Thậm chí gia đình hắn cũng thỉnh thoảng nhận được sự giúp đỡ từ chính những nạn nhân của hắn, theo đúng tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc Việt.

     3. Mấy hôm nay đọc báo mạng, bổng nhiên tôi rùng mình vì hay tin Chí Phèo nay đã lớn mạnh thành ra một …quốc gia. Lợi dụng việc nằm giữa các nước đang ổn định về chính trị, phát triển mạnh mẽ về kinh tế; Chí chọn con đường phát triển mạnh mẽ về quân sự và công nghiệp quốc phòng, nói trắng ra là phát triền vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt, nhân danh quyền tự vệ chính đáng. Sau đó đem vũ khí ấy ra hăm he; mặc cả với láng giềng để đổi lấy lương thực thực phẩm, nhiên liệu năng lượng, thuốc men y tế và các loại hàng hóa khác. Và cũng giống như người dân xóm tôi, các quốc gia láng giềng đành phải bấm bụng mà mua lấy sự bình an, tránh bị sự quấy rầy liên miên của Chí. Hội nghị sáu nước họp bàn về việc giải trừ vũ khí hạt nhân thật giống với cuộc họp tổ dân phố của xóm tôi hôm nào: khi có người nêu lên ý bắt Chí đi tập trung lao động cho chừa cố tật thì cũng có người bênh vực, hỏi rằng rồi ai sẽ nuôi sáu đứa con nheo nhóc của hắn. Đáp lại gợi ý nên giúp đỡ vật chất cho gia đình của Chí thì cũng có người phản bác, nói rằng xưa nay giúp ngặt chứ không ai giúp nghèo. Lòng từ thiện nên đặt đúng chỗ chứ không phải của kho vô tận. Nói gà nói vịt một hồi rồi giải tán, chẳng đi đến đâu; rốt cuộc Chí vẫn Phèo như cũ.

     Thật tội nghiệp khi nhìn thấy hình ảnh người dân của Chí với gương mặt khắc khổ lấm lem không một nụ cười, tương phản với những gương mặt ngoại giao béo tốt nọng thịt. Hàng năm, đất nước ấy vẫn thiếu đói triền miên, hụt trên một triệu tấn lương thực, phải nhờ viện trợ của các nước và tổ chức quốc tế phi chính phủ ( NGO ) nhưng vẫn không ngớt lên án những kẻ thù có thật và không có thật. Để trút lên đầu chúng tất cả những khổ đau mà người dân đang gánh chịu.

*****

Wednesday, November 24, 2010

Mạc Triều: Ngàn Năm Công Tội

KIẾN HÀO

Quan niệm phong kiến xưa xem đất nước thuộc quyền sở hữu của nhà vua , nên trong lịch sử có nhiều trường hợp khi sự tồn tại của vương triều bị đe dọa , kẻ thống trị sẵn sàng đem lãnh thổ làm vật trao đổi với ngoại bang, hòng cũng cố địa vị đang bị lung lay hoặc giành lại vương quyền đã mất, kể cả việc rước quân xâm lược về giày xéo quê hương, ngoảnh mặt làm ngơ trước những nổi thống khổ của nhân dân, miễn sao giữ được đặc quyền đặc lợi. Hồ Hán Thương, Mạc Đăng Dung và Lê Cảnh Hưng là ba ông vua đã cắt đất dâng Tàu. Ngày nay nếu nhìn lên bản đồ Việt Nam, sẽ dễ nhìn thấy đường biên giới từ Quảng Ninh đến Lạng Sơn bị lõm vào một đoạn. Trong đó có phần đất của Việt Nam đã bị ba kẻ tội đồ trên nộp cho nhà Minh.  

THÍ VUA, SOÁN NGÔI, LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN:

Mùa thu, tháng 7, ngày 27 năm Nhâm Ngọ (1522), vua Lê Chiêu Tông bị quyền thần Mạc Đăng Dung bức bách quá ngặt, đang đêm bèn bỏ chạy ra ngoài hoàng thành, hiệu triệu các trấn Sơn Tây, Sơn Nam, Hải Dương và Kinh Bắc mưu dấy quân khôi phục vương quyền, vì chiến sự không lợi nên lui về Thanh Hoa cố thủ. Mạc Đăng Dung thừa cơ, lập hoàng đệ Xuân tức Lê Cung Hoàng lên ngôi vua, phế (vắng mặt ) Chiêu Tông làm Đà Dương Vương. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung huy động toàn bộ binh lính thủy bộ đánh vào Thanh Hoa, bắt được Chiêu Tông đem về giam ở Đông Kinh. Tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung sai Bá Khuê bá Phạm Kim Bảng bí mật giết vua Lê Chiêu Tông tại phường Đông Hà (phố hàng Chiếu Hà Nội ngày nay) rồi tự lập làm vua (1527 ). Ít tháng sau, Lê Thái hậu và Cung Vương đều bị giết. Triều ( Hậu ) Lê tính từ Lê Thái Tổ mở nước dựng nghiệp đến đây là đúng một trăm năm [trang122,119]. Sử đời sau gọi là thời kỳ Lê sơ.
Đại Việt sử ký toàn thư ( chính biên, tờ 72a) chép: “ Năm Mậu Tý ( 1528 ), Mạc Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với nhà Minh rằng con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn lại cho đại thần là họ Mạc tạm coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, bí mật sai người sang dò thăm tin tức trong nước, xét hỏi duyên do, ngầm tìm con cháu họ Lê để lập nên. Họ Mạc thường trả lời bằng những lời lẽ văn hoa, lại đem nhiều vàng bạc đút lót ( sứ giả ). Đến khi sứ giả về, mật tâu là con cháu họ Lê đã hết, không ai nối ngôi được, đã ủy thác cho họ Mạc. Người trong nước đều tôn phục và theo về họ Mạc cả, xin tha tội cho họ. Vua Minh mắng không nghe, Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại” .
Cũng sách trên chép: Năm Kỷ Sửu ( 1529 ) , bọn bề tôi cũ của nhà Lê là hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chạy sang tố cáo với nhà Minh. Họ Mạc liền đem nhiều lễ đút lót cho bọn quan lại nhà Minh để phá. Việc không thành, hai anh em đều chết bên Minh”.
           Việt Nam sử lược (chương hai: Nam Bắc triều) chép: “ Năm Đinh Hợi (1527) , Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên hiệu là Minh Đức. Nhà Mạc tuy đã làm vua, nhưng còn sợ lòng người nhớ nhà Lê, cho nên công việc gì cũng theo phép nhà Lê cả, rồi lại tặng phong cho những người vì nhà Lê mà tuẫn tiết, và lục dụng những con cháu các quan cựu thần, phong cho quan tước để dụ về với mình. Nhưng mà kẻ thì trốn tránh vào ở chỗ sơn lâm, kẻ thì đi ra ngoại quốc, kẻ thì đổi họ tên, không mấy người chịu phục. Lại có kẻ tức giận vì họ Mạc làm điều gian ác, tụ họp những người nghĩa khí nổi lên đánh phá….

 ĐẦU HÀNG NHÀ MINH, XIN NỘI THUỘC, CẮT ĐẤT CẦU PHONG:

Năm 1540, triều đình nhà Mạc lâm vào tình thế khốn đốn, phải chịu sức ép từ hai phía: ở phía Nam, quân Lê – Trịnh từ Thanh Hoa thường xuyên đánh ra; ở biên giới phía Bắc, quân Minh tập trung quân ở Khâm Châu, lập hành doanh Mạc phủ tại ải Nam Quan, chuẩn bị sang hỏi tội . Ở thế lưỡng đầu thọ địch, Mạc Đăng Dung chọn giải pháp đầu hàng giặc ngoài để rảnh tay lo thù trong. Một sự chọn lựa hoàn toàn phản dân hại nước, đi ngược lại quyền lợi dân tộc và bôi nhọ thanh danh dất nước, dâng nộp giang sơn lệ thuộc vào phương Bắc để bảo toàn quyền lợi phe nhóm, để lại tiếng xấu đến ngàn năm sau.
Đại Việt Sử ký toàn thư chép: “ Mùa đông, tháng 11, năm Canh Tý ( 1540 ), Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước Mạc Phủ của quân Minh, quỳ gối cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương , La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai bọn Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh.”.
Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn chép chi tiết hơn: “ …đúng kỳ hẹn trên, Đăng Dung lưu Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi tự dẫn tiểu mục và kỳ nhân là bọn Nguyễn Như Quế, đến cửa Nam Quan ứng chực, thảy đều dùng vãi tự quấn vào cổ . Trên tướng đài đã đặt sẵn cái long đỉnh, các quan Phó giám Tam ty trong hai tỉnh Quảng nhà Minh đều ngồi đợi trên đài. Đến khi truyền lịnh mở cửa quan , Đăng Dung do cửa bên tả bước ra, bỏ giày đi chân không, quỳ gối quay mặt về phương Bắc, quan nhà Minh sai sinh viên Tạ Thiên Túng cởi những vải quấn ở cổ cho bọn Đăng Dung, và nhận tờ hàng biểu. Đăng Dung phủ phục lễ 5 lễ, cúi đầu vái 3 vái, cháu họ Đăng Dung là bọn Mạc Văn Minh cũng lần lượt lễ theo. Quan nhà Minh truyền rằng: “ Hãy dong cho đới tội về nước, chờ đây chuyển tâu lên triều đình, xin cho được khỏi tội chết…”.
Việt Nam sử lược chép: “ Đến tháng 11 năm Canh Tý ( 1540), Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất năm động là: động Tê Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh .

Về việc cắt đất giao cho giặc, các bộ sử chép có khác nhau: 

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Đăng Dung cắt dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Nhưng theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (chính biên, quyển 27) thì có thể sách trên chép nhầm vì theo Khâm Châu chí của nhà Minh và Quảng Yên sách của ta thì An Lương vẫn thuộc châu Vạn Ninh nước ta.
Theo Đại Việt thông sử thì trong tờ hàng biểu, Mạc Đăng Dung tâu rõ: “ …hai đô Như Tích, Chiêm Lãng và bốn động Tư Phiêu, La Phù, Cổ Sâm, Liễu Cát là đất cũ của Khâm Châu tỉnh Quảng Đông. Nếu quả như vậy thì những đất ấy do triều trước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào Khâm Châu….
Theo Việt Nam sử lược, năm động bị dâng là: Tê Phù , Kim Lặc,  Cổ Sung, Liễu Cát và La Phù, có lẽ chép theo Cương mục.
Tháng 10 năm Tân Sửu ( 1541 ), vua Minh nghe theo bản tấu của bọn Cừu Loan, Mao Bá Ôn phong cho Mạc Đăng Dung làm An Nam Đô thống sứ ty đô thống sứ [1], ban ấn bạc và sai giữ việc triều cống như lệ cũ, lịnh truy thu đủ lễ vật tiến cống hàng năm còn thiếu. Thu nạp đất 13 lộ cũ cho nhập vào Khâm Châu và đặt các quan chức quản hạt. Tuy nhiên trước đó 2 tháng, Mạc Đăng Dung đã chết nên không kịp thấy thành quả bán nước, đầu hàng giặc của mình.
            Tháng 12 năm Nhâm Dần ( 1542 ), nhà Minh lại phong Mạc Phúc Hải làm An Nam Đô thống sứ ty đô thống sứ. Sang năm sau, họ Mạc sai sứ sang tuế cống nhà Minh; khi vào chầu thì mọi việc tiếp đãi sứ bộ đều giản lược bớt đi vì họ không còn được coi là bồi thần [2]. 

TRAI CÒ MỔ NHAU, NGƯ ÔNG ĐẮC LỢI

Đây là một chương bi thảm nhục nhã của trang sử Việt: cả hai chế độ Lê – Trịnh và Mạc một mặt tranh thủ sự ủng hộ của vua quan nhà Minh bằng lễ vật tiến cống và của đút, một mặt kể xấu nhau không tiếc lời (với thiên triều ) để vạch áo cho người ngoài xem lưng. Quả thật thói thường hành vi của bọn quyền gian là độc ác tàn nhẫn với người trong nước mà quỳ lụy xu phụ hèn hạ với người nước ngoài. Một giai đoạn lịch sử đầy đau thương và nhục nhã: dân chết đói vì mất mùa, mất nhà cửa vì loạn lạc, đồng ruộng bỏ hoang mà Nam triều lẫn Bắc triều lại ganh nhau nạp cống cho Tàu. Vật phẩm cống nạp là máu mỡ của dân chớ phải đâu của riêng tư dòng họ, mĩa mai thay là cũng trong giai đoạn đó có biết bao nhiêu là khoa thi của hai triều, lấy đỗ hàng trăm vị tiến sĩ, thế mà không một ai dám lên tiếng can ngăn hay phê phán. Phàm cái gì bất chính thì không thể tồn tại, chiếm hữu bằng bạo lực thì sẽ chịu thất bại vì bạo lực. Mấy chục năm tồn tại vất vưởng ở Cao Bằng sau đó, chỉ giống như một viên phiên mục, chẳng qua là nhờ có sự can thiệp của nhà Minh, khi nhà Minh tiêu vong thì nhà Mạc cũng không còn.
            Đại Việt sử ký toàn thư ( bản kỷ tờ 72-b ), chép : “ …Mạc Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội ( soán ngôi ), bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận cùng hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận lấy….
Đại Việt thông sử ( tờ 36a -36b ) chép  nội dung tờ hàng biểu của Đăng Dung nộp vua Minh có đoạn sau : “ …về việc hạ quốc còn thiếu cống hiến trong mấy năm trước đây, tất nhiên sẽ xin nộp bù, và từ nay mỗi năm xin theo lệ cống hiến đầy đủ, cái đó hạ thần không dám kêu nài, là vì hạ thần hiện là kẻ có tội, đang cầu xin khỏi chết còn sợ chưa được. Hạ thần lại muốn chiếu theo lệ cũ triều trước của hạ quốc, định mỗi năm cống hiến một người bằng vàng để thế mạng, nhưng còn sợ đường đột nên chưa dám. Nay nhân tâu sớ đầu hàng, xin bệ hạ định đoạt, và xin cho hạ thần được tạm dùng quả ấn, lọng vàng, do thiên triều đã cho hạ quốc từ trước….
Cũng sách trên, chép về các khoản cống nạp của Mạc Phúc Hải cho vua Minh như sau: “ Mùa thu tháng 8 năm Nhâm Dần (1542), Phúc Hải sai Giao bắc tuyên phủ đồng tri Nguyễn Kính Điển, Thiêm sự Nguyễn Công Nghi và Lương Giản sang nhà Minh tạ ơn về sự được sắc phong , tiến dâng lễ phẩm bản xứ gồm : bốn lô hương và bình cắm hoa bằng vàng ( nặng 195 lạng ) ; một rùa bằng vàng ( nặng 19 lạng) ; hai lô hương và bình cắm hoa bằng bạc ( nặng 151 lạng) ; 12 mâm bằng bạc ( nặng 641 lạng) ; 60 cân trầm hương; 148 cân tốc hương [3]; 30 nén giáng chân hương ; 20 sừng tê giác ; 30 cái ngà voi, cùng các thứ hương thơm tơ lụa khác . Lại sai Nguyễn Chiêu Huấn, Vũ Tuân, và Tạ Đình Quang dâng các phương vật về lễ cống hiến hàng năm, cũng như các thứ kể trên. Sau bèn thành lệ.[4] .
Việt Nam sử lược chép: “ Khi Trịnh Tùng đã thu phục được thành Thăng Long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi, chứ không phải là con cháu nhà Lê. Vua nhà Minh sai quan đến Nam Quan khám xét việc ấy. Tháng 3 năm Bính Thân ( 1596 ) vua Thế Tông sai quan Hộ Bộ Thượng thư là Đỗ Uông, Đô Ngự sử là Nguyễn Văn Giai lên Nam Quan tiếp quan Tàu; lại sai hai ông hoàng thân là Lê Ngạnh, Lê Lựu cùng với Tả thị lang bộ Công là Phùng Khắc Khoan đem 10 kỳ mục, 100 cân vàng, 1000 cân bạc, ấn An Nam quốc vương của vua Lê, ấn An Nam đô thống sứ của nhà Mạc, sang cho nhà Minh khám. Nhưng quan nhà Minh lại bắt vua Thế Tông phải thân hành sang hội  ở cửa Nam Quan. Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá, nhưng sang đến nơi, quan nhà Minh lại đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như tích cũ, rồi không chịu đến hội. Vua chờ lâu không xong việc lại phải trở về ”.  
Đại Việt sử ký toàn thư ( Bản kỷ tục biên, tờ 58-b ) chép: “ Tháng chạp năm Bính Thân (1596 ), vua Lê lại sai quan Hộ Bộ thượng thư là Đỗ Uông, Quảng quận công là Trịnh Vĩnh Lộc làm quan hầu mệnh, mang hai người vàng người bạc và các vật cống tới thành Lạng Sơn để đợi nhà Minh hội khám. Bấy giờ viên thổ quan Long Châu vì đã nhận nhiều của đút của họ Mạc, nên cứ về hùa với họ Mạc mà thoái thác, khiến cho việc chẳng thành, lại vừa gặp tết Nguyên đán, bọn Đỗ Uông và Vĩnh Lộc đành phải về kinh”.
Việt Nam sử lược chép: “ Đến tháng 4 năm sau (1597) , sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế Tông lên hội khám ở Nam Quan. Triều đình sai quan Thái úy Hoàng Đình Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá, sang hội ở Nam quan. Đến khi về, Trịnh Tùng đem các quan đi đón mừng rồi sai Công bộ tả thị lang Phùng Khắc Khoan làm chánh sứ, quan Thái thường tự khanh Nguyễn Nhân Thiêm làm phó sứ, đem đồ lễ sang Yên Kinh cống nhà Minh và xin phong ”.
Việt sử giai thoại ( tập 6 ) nhận định như sau: “ Họ Lê và họ Mạc lớn tiếng bêu riếu khắp nước vẫn chưa cảm thấy vừa lòng, cho nên mới tìm cách bêu riếu nhau trên đất thiên triều là nhà Minh. Đương thời, họ chỉ cốt nói sao  cho hả dạ căm tức, có biết đâu, cứ mở miệng nói mãi những điều chẳng tốt lành, thân danh cũng theo đó mà tan tành tơi tả. Ở đời, có phải lúc nào trình độ học vấn  và trình độ hiểu biết về văn hóa  cũng tương đương với nhau đâu !” .

KHUYNH HƯỚNG PHÊ PHÁN, LÊN ÁN CỦA CÁC SỬ GIA:

Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ thực lục, tờ 79a-79b, Đăng Bính bàn :…cứ xem mọi việc làm thì Đăng Dung chẳng qua là một viên đại thần của nhà Lê, đương lúc nhà Lê suy yếu, tôi mạnh, nếu hắn biết noi theo các bậc tôi giỏi, tướng hiền đời xưa, phò chúa , giúp dân như Y Doãn giúp Thái Giáp, Chu Công giúp Thành Vương thì công lớn huy hoàng ấy còn đáng ca ngợi. Sao lại không bắt chước thế mà đi làm ngược lại ? Thế thì không tránh khỏi cái tiếng bức vua ngường ngôi, cướp nước giết vua để mưu tự lập. Ngay lấy được nước, cũng chỉ khoảng sáu bảy năm, nếu gọi là thành công, cũng chỉ như Vương Mãng thôi, rốt cuộc không tránh khỏi họa tru di …còn như kẻ bội nghịch cướp ngôi, giết vua rồi miễn cưỡng tự lập, thì dẫu có xưng danh hiệu, cũng đều là danh bất chính lời không thuận cả, thì chép thành kỷ phụ, đều là nghịch cả thôi.…năm trước họ Mạc tuy đã được nhường ngôi nhưng vẫn ghi năm Thống Nguyên thứ 6 của triều Lê làm chính thống. Từ đây về sau, triều Lê không còn niên hiệu để chép nữa, mới lấy niên hiệu Minh Đức của họ Mạc chú riêng thành hai hàng. Không được chép thành kỷ chính thống là để tỏ rõ cướp ngôi là ngụy… bức hiếp lòng người, dối vua đến gò hoang, cướp lấy thiên hạ của triều Lê, tiếm xưng vị hiệu, vào ở nhà vàng, đủ vành giảo quyệt. Lấy một xó đất Hải Dương gọi là Dương Kinh, tự tiện phế bỏ lăng tẩm của Lê Triều, chém giết con cháu các công thần đời trước. Xét những việc làm của nó, không khác gì Tào Tháo. Đáng đau xót biết chừng nào !...”.
          Việt Nam sử lược ( tự chủ thời đại, chương hai) của Trần Trọng Kim : “ Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn- vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú- quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm- sỉ.
          Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn- ở của loài người là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục ? Cho nên dẫu có lấy được giang san nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp được dựng lên bởi sự gian ác hèn hạ như thế, thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy nên con cháu họ Lê lại trung hưng lên được ”.

          Phan Bội Châu trong tập sách Việt Nam quốc sử khảo ( chương thứ tám và chín ) đã kết tội Mạc Đăng Dung cướp ngôi, giết vua Lê; lấy đất đai , nhân dân dâng lên nhà Minh là tội đáng chém.  Khâm định Việt sử thông giám cương mục, do các sử gia triều Nguyễn chép , hay Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn triều Lê trung hưng cũng đều xem nhà Mạc là Nguỵ triều, nên phàm các danh hiệu đều chép là tiếm xưng , tiếm phong, chức quan gọi là ngụy chức. Lê Quý Đôn gọi sử nhà Mạc là nghịch thần truyện; tất cả đều phủ nhận tính chính thống của nhà Mạc, một chế độ được dựng lên bằng bạo lực và cũng bị phế bỏ  bằng bạo lực.
          Sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Ủy ban KHXH (  Hà Nội - 1971 ) đã ghi lại như sau: “…họ Mạc còn dựa vào thế lực của ngoại bang , đầu hàng, thỏa hiệp với nhà Minh để hòng đổi lấy sự “ ủng hộ ” của nước ngoài. Độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và thanh danh của đất nước, đó là những điều thiêng liêng đối với người Việt Nam từ ngàn xưa, nay bị xúc phạm vì sự bất lực và hèn nhát của tập đoàn thống trị họ Mạc ”.

MỘT SỐ Ý KIẾN THEO QUAN ĐIỂM XÉT LẠI HIỆN NAY :

Từ sau 1975, các nhà làm sử hiện đại trong nước (chủ yếu là ở miền Bắc) mở nhiều cuộc hội thảo tham luận, đánh giá lại các triều đại như nhà Hồ, nhà Mạc hay các cá nhân như Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Trần Thủ Độ, Dương Vân Nga, Lê Hoàn thậm chí cả Nguyễn Hữu Chỉnh và Đặng Tuyên phi… với những quan điểm, nhận định hoàn toàn khác trước. Rõ ràng thế giới quan, nhân sinh quan mỗi thời mỗi khác dẫn đến việc nhìn nhận các sự kiện lịch sử cũng khác.
Bài tham luận của giáo sư Phan Huy Lê đọc tại cuộc hội thảo khoa học về vương triều Mạc tổ chức tại Hải Phòng (quê hương họ Mạc ) năm 1994: “ Đánh giá xung quanh vấn đề này có những ý kiến khác nhau, nhất là chính sách đối ngoại của nhà Mạc đối với nhà Minh. Nhưng cuối cùng đã đi đến thống nhất: phải đặt nhà Mạc trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Nhà Mạc phải đối phó với nhiều thế lực phong kiến. Đòi hỏi phải có nhiều sách lược mềm mỏng. sách lược đó là  tránh chiến tranh , bảo vệ chủ quyền của mình.
          Việc dâng đất cho nhà Minh; nhà Mạc cắt bốn động  thuộc hai châu cho nhà Minh điều đó là có thật. Vì đất đó thực chất là của nhà Minh. Về phương diện nào đó nhà Minh đòi hỏi nhà Mạc phải trả lại. Và cũng về mặt nào đó nhà Mạc phải trả lại cho nhà Minh. Tuy nhiên việc làm này không thể chấp nhận được. Vì đó là nguyên tắc trong mối quan hệ bang giao. Nên dù sao trong chính sách đối với nhà Minh, nhà Mạc còn một số hạn chế ”.
          Việt Sử tân biên của Phạm Văn Sơn ( Sài Gòn – 1959 ), cho rằng : “Trên trường chính trị quốc tế, việc nhường đất để giảng hòa, để bãi một cuộc binh đao tai hại, các nhà lãnh đạo vẫn phải làm. Cũng như Nhật phải mở hải cảng Hạ Điền, Châu Quan cho Mỹ, mở Deshima cho Hà Lan; Trung Quốc phải cắt Hương Cảng cho Anh, nhường Mãn Châu cho Nhật.v..v…Nhà viết sử không chiếu xét kỹ tình thế mà cứ hạ lời phê phán gắt gao không khỏi có sự cố chấp nông cạn. Trái lại, không lượng sức mình mà đưa cả một dân tộc vào chiến tranh đến nỗi mất cả xứ sở, chết chóc muôn ngàn sinh mạng, đó mới là xuẩn động và đáng trách ”.
          Báo cáo đề dẫn của Nguyễn Văn Sơn tại hội thảo “Vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam” nhân dịp trùng tu di tích nhà Mạc tại Hải Phòng và kỷ niệm ngàn năm Thăng Long ngày 21 tháng 9 năm 2010 vừa qua có thể đại diện cho quan điểm của giới sử học Hà Nội, mong muốn có một cái nhìn khác về nhà Mạc, căn cứ trên những đóng góp về văn hóa giáo dục, kinh tế…của “ ngụy triều ” này : “  Từ những năm 1980 trở đi, giới sử học nước nhà ( trong nước ) đã có cái nhìn cởi mở hơn, đánh giá đúng hơn về triều Mạc. Nhiều cuộc hội thảo khoa học sau này đã có những đánh giá mang tính khoa học, khách quan về những đóng góp của nhà Mạc trong lịch sử nước nhà. Đặc biệt cuộc hội thảo khoa học năm 1994 tại Hải Phòng – quê hương của nhà Mạc đã khẳng định nguồn gốc nhà Mạc khởi nguồn từ trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi thời Trần. Nhà Mạc thay nhà Lê là hiện tượng tiến bộ trong lịch sử. Tuy còn nhiều tranh cãi về chính sách ngoại giao “ thần phục giả vờ, độc lập thực sự ” của nhà Mạc nhưng nhiều ý kiến cho rằng trong bối cảnh thù trong giặc ngoài, nhà Mạc đã dùng chính sách ngoại giao như vậy để tránh cho dân tộc bị nước ngoài xâm lược cũng có thể coi là thành công, từ đó có cái nhìn thông cảm hơn với những công và tội của nhà Mạc.”

Lời bàn của Kiến Hào :

  1. Giết hai vua, hại chết Thái hậu, hãm hại trung thần, đầu hàng ngoại bang, hạ nhục quốc thể, vu khống triều cũ, đút lót mua chuộc, nộp sổ sách dân đinh, nộp bản đồ cương thổ, cắt đất dâng giặc, vơ vét tài nguyên nộp cống, nhận quan chức của nước ngoài …là thần phục thật sự rồi chứ giả vờ gì nữa. Lại còn bảo rằng để tránh cho dân tộc bị nước ngoài xâm lược ? Than ôi sao khéo dùng lời lẽ mà biến tội thành công như thế ! Quân nhà Minh chỉ hư trương thanh thế để hù doạ kẻ nhát gan chứ khi ấy ngay trên đất nước họ cũng đang phải đối phó với bao khó khăn: giặc cướp bể người Nhật ở ven biển, khởi nghĩa nông dân ở Hoa Bắc, sự dòm ngó của Tây phương, sự lớn mạnh của tộc Mãn Châu ở Đông Bắc…, vả lại gương thất bại nhục nhã của bọn Vương Thông ngày nào cũng khiến cho chúng phải chùn bước mà suy nghĩ lợi hại. 
  2. Lại còn có ý kiến kể công rằng sự nhẫn nhục của Mạc Đăng Dung không những trực tiếp cứu nhà Mạc mà còn gián tiếp cứu nhà Lê trung hưng, bởi nếu nhà Mạc bị nhà Minh diệt như nhà Hồ thì nhà Lê cũng sẽ bị nhà Minh diệt như nhà Hậu Trần. Sao lại có tư tưởng chủ bại, đầu hàng ngay từ trong tư tưởng như thế ? Ai biết nhà Minh diệt nhà Lê hay là sẽ có một Lê Lợi thứ hai đánh cho quân Minh tan tác, dạy cho quân xâm lược thêm một bài học nhớ đời ? Và hình ảnh một Mạc Đăng Dung sẽ tất tả chạy về Tàu theo tàn binh có khác gì một Lê Chiêu Thống sau này.
  3. Họ Mạc đầu hàng nhà Minh cốt để giữ lấy quyền lợi của dòng họ và ngôi vương của mình chớ nào nghĩ tới vì dân vì nước mà gọi là chịu nhục để bảo toàn độc lập ? Thương là thương cho dân đen phải chịu hai tầng áp bức chứ bữa cơm vương giả có kém đi món sơn hào hải vị nào đâu. Bằng chứng là sau khi đã có được sự bảo kê của nhà Minh thì họ Mạc lao vào cuộc chém giết huynh đệ tương tàn suốt mấy chục năm trời, núi xương sông máu ấy đã kéo lùi sự phát triển của đất nước hàng thế kỷ, sao lại gọi Mạc Đăng Dung là kẻ có công ? Độc lập dân tộc như thế phỏng có ích gì ?
  4. Quan niệm “ đất nhà Minh trả lại cho nhà Minh ” là một quan niệm rất nguy hiểm vì vốn đất ấy đã thuộc vào nước ta từ đầu thời Lê sơ; do các hào mục, động trưởng mến mộ oai đức Lê Thái Tổ mà tự nguyện xin nhập vào châu Vạn Ninh, mảnh đất đã xác lập chủ quyền ( lãnh thổ, dân tộc, chính quyền ) trải hàng trăm năm sao còn gọi là đất của nhà Minh? Không cướp đoạt bằng bạo lực sao gọi là “ trả lại đất đã chiếm” ? Ngày nay, các nước đều công nhận Phú Quốc thuộc Việt Nam, dù hòn đảo ấy gần Campuchia hơn ta nhiều. Vì ta có chủ quyền nơi ấy. Do đó lập luận đất cũ trả chủ cũ nói trên là ngụy biện, không thuyết phục, tóm lại chỉ có thể dùng một từ “ bán nước ” mà thôi.
  5. Nhường đất giảng hòa đôi khi là một thủ thuật ngoại giao dùng để tranh thủ thời gian cũng cố hoặc phát triển lực lượng, và việc nhượng bộ ấy cũng có những điều ước giới hạn quyền của kẻ chiếm đóng. Nếu không như thế thì không thể nào có được sự đồng tình và cảm thông của người dân, kể cả hậu thế. Do đó mà Phan Thanh Giản và vua Tự Đức vẫn chịu sự phán xét của lịch sử cho đến ngày nay; không ai nói rằng Phan Thanh Giản có công vì đã dâng thành Vĩnh Long cho Pháp, tránh được đổ máu vô ích dù đó là sự thật; hay hòa ước đầu hàng năm Giáp Thân 1884 đã tránh cho mảnh đất Trung kỳ không đổ nát nhưng tất cả người Việt yêu nước đều biết rằng đó là một sự đầu hàng nhục nhã, đưa đất nước vào vòng nô lệ suốt trăm năm.
  6. Tóm lại, muốn thay đổi quan niệm cũ , ủng hộ cái mới thì lý lẽ biện minh phải vững chắc, có tính thuyết phục cao, nếu không thì chỉ là cơn gió thoảng, ngụy biện vì động cơ cục bộ, xu thời, vài mươi năm sau thì không ai còn thiết đến.Cho nên mới có câu: “ Đóng đinh thì dễ, nhổ đinh thì khó ” là thế.
Chú thích :
[1] Đây là chức quan theo quan chế nhà Minh, vì khi Mạc Đăng Dung đầu hàng  thì Việt Nam đã nội thuộc vào nước Tàu, không còn là một nước nữa.
[2] Bồi thần có nghĩa là làm tôi cho hai triều ( triều Mạc và triều Minh ). Không theo lễ tiếp bồi thần vì không coi họ Mạc là vua chư hầu nữa, nên sứ giả cũng bị xem nhẹ.
            [3] Trầm hương thả xuống nước thì chìm, tốc hương thì nổi lên.
[4]  Kể từ giữa thời Mạc thì thay việc cống người vàng người bạc bằng bình hoa và lư hương với trọng lượng tương đương.

Tài liệu tham khảo :
- Đại Việt thông sử - Lê Quý Đôn , bản dịch Lê Mạnh Liêu – Bộ Văn Hoá Giáo Dục & Thanh niên Sài Gòn 1973  .
- Việt sử giai thoại - Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo dục 2002
- Việt Nam quốc sử khảo – Phan Bội Châu , NXB Thuận Hóa 2001
- Đại Việt sử ký toàn thư - NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội 2004
- Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim , NXB Tổng hợp TP HCM 2005
- Hỏi đáp lịch sử Việt Nam – Trần Nam Tiến chủ biên, NXB Trẻ 2008  

Sunday, October 31, 2010

Đoạn kết của vua Lê Chiêu Thống

KIẾN HÀO

Mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, đuổi sạch quân xâm lược trốn chạy trối chết về phương Bắc . Lê Chiêu Thống và đám triều thần cũng chịu chung số phận , phải tạm nương náu ở Quế Lâm ( Trung Quốc) nhưng vẫn còn nuôi chí phục thù. Lúc bấy giờ Tôn Sĩ Nghị đã bị bãi chức, Tổng đốc Lưỡng Quảng mới là Phúc Khang An vốn là một văn quan cận thần trong triều, không thạo chinh chiến, lại thấy tận mắt đám tàn quân nam chinh lôi thôi lếch thếch chạy về trong lòng không khỏi ngán ngại nên quyết tâm theo kế chủ hòa. Từ đó thường xuyên thư từ qua lại với viên văn quan nước Việt là Ngô Thì Nhậm, mọi việc phối hợp nhịp nhàng khiến việc binh đao hai nước phải tạm lui. Cùng với Phúc Khang An, viên đại thần triều Thanh là Hòa Khôn đã nhận được nhiều vàng bạc đút lót nên khi tiếp tờ biểu cầu hòa dâng lên Càn Long, đã chủ động “ bàn lui ” khiến vua Thanh không còn nuôi mộng phục thù mà hoan hỉ giảng hòa, lại khiến vua Quang Trung sang diện kiến, nhận làm nghĩa tử. Hai nước thông hiếu, Quang Trung được phong vương, nhân dân hai nước hưởng thái bình, các quan giữ được ghế và có thêm vàng bạc, binh lính không còn bị chết chóc ám ảnh nữa. Duy có một người, vẫn còn mơ hồ ôm mộng đồ vương, ngày đêm trông ngóng quân thiên triều khởi binh mà không biết lịch sử đã sang trang. Đó là cựu vương Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng triều hậu Lê.
Nguyên khi mới sang tá túc ở Quế Lâm, vua tôi nhà Lê bị Phúc Khang An dùng mẹo lừa, dùng lời hứa hão mà gọt đầu gióc tóc tất cả và bắt ăn mặc như người Mãn Thanh. Sau đó hắn làm một tờ biểu kín tâu với vua Thanh, đại ý nói vua An Nam không còn muốn về nước nữa, chỉ muốn sống yên ổn trên đất Trung Quốc . Còn Hòa Khôn thì cũng lựa dịp xin phong vương cho vua Quang Trung. Các lời tâu đều được chuẩn y nên năm sau (1790) có chiếu chỉ vời vua cũ và các cựu thần về Yên Kinh. Tại đây , vua Lê được ban cho chức quan hờ và không còn được đoái hoài gì tới, dần dần hiểu ra thân phận và lấy làm hết sức căm giận.
      Sách Cương mục chép : “ … nhà vua căm giận vì bị nhà Thanh lừa gạt, bèn cùng bọn bề tôi là Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên (Cẩm) , Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức tổng cộng mười người cùng nhau uống máu ăn thề rồi thảo tờ biểu dâng lên vua Thanh xin viện binh, nếu không thể thì cũng xin đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để có chỗ thờ cúng tổ tiên, hoặc lẽn về Gia Định nương nhờ triều ta ( triều Nguyễn) để dần dà kiếm kế khôi phục, chứ nhất quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc. ”. Tờ biểu thảo xong, bọn họ đến báo trước cho viên quan nhà Thanh là Kim Giản , người này lựa lời an ủi rồi bàn với Hòa Khôn phân tán mỗi người một nơi. Phạm Như Tùng ở Hắc Long Giang, Hoàng Ích Hiểu ở Y Lê, Lê Hân ở Phụng Thiên, Nguyễn Quốc Đống ở Cát Lâm, Nguyễn Viết Triệu ở Nhiệt Hà… Vua Lê nghe tin lấy làm buồn rầu căm phẫn, sáng sớm đi ngựa vào nhà Kim Giản muốn phân trần việc thống khổ của bọn bề tôi. Khi ấy Kim Giản đã vào chầu vua Thanh ở vườn Viên Minh, vua Lê bèn phi ngựa luôn tới cửa vườn, bị lính canh giữ ngăn lại, giằng lấy ngựa rồi bắt vua xuống bộ, định đưa đi nơi khác. Người dắt ngựa của vua là Nguyễn Văn Quyên bèn níu lấy cương ngựa mà mắng rằng :
-         Đồ vô lễ, dám làm nhục vua ta à ?
Nói rồi liền lấy đá ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám lính này bèn kéo đến đánh Văn Quyên một trận gần chết, xong đem về giam ở tòa Thận Hình [], hơn tháng sau thả ra thì Văn Quyên chịu đau không nổi mà mất. Bấy giờ là mùa hè năm Tân Hợi (1791). Từ đấy vua Lê không còn dám nói đến việc xin quân cứu viện nữa nhưng lòng oán hờn tích tụ lâu ngày, sinh ra bịnh nặng. Qua năm sau, con trưởng của vua lên đậu rồi mất, nhân thế bệnh vua càng thêm nguy kịch. Các bề tôi bị an trí nơi khác nghe tin đều dâng biểu về vấn an.
Ngày Ất Tỵ (ngày 16), tháng 10, mùa đông năm Quý Sửu, niên hiệu Càn Long thứ 58 ( 1793), nhà vua trở bệnh nặng, bèn cho gọi bọn thị thần Lê Duy Khang, Phạm Đình Thiện, Đinh Nhã Hành tới nhận lời trăng trối :
-         Vận nước suy vi, ta không thể giữ được xã tắc, phải nương tựa nơi đất khách quê người hòng tính kế khôi phục nhưng không ngờ bị bọn quyền gian lừa gạt, uất hận khôn xiết. Sau này nếu có ai trong bọn ngươi được về nước thì nên đèo nắm xương tàn của ta về táng cạnh lăng tiên vương ( Bàn Thạch- Thanh Hóa) để tỏ cho người trong nước biết tấm lòng mong mõi ( trở về) của ta.
Các bề tôi đều khóc lạy xin vâng mệnh. Chốc lát vua mất, thọ 28 tuổi.
Vua ở ngôi 2 năm ( 1786-1788), là vị vua thứ 27 và cũng là vị vua cuối cùng nhà Hậu Lê, triều đại kéo dài hơn 360 năm trong giai đoạn đầy biến động của lịch sử Việt Nam.
Năm Bính Thìn (1796), Lê Thái hậu thấy các bề tôi ở nơi đất khách khổ sở mà ngày về mờ mịt, bèn dâng tờ biểu xin cho các quan được lấy vợ bản địa (người Trung Quốc), vua Thanh thuận cho, lại cấp thêm tiền bạc làm lễ cưới. Ba năm sau, Thái hậu cũng mất tại Yên Kinh.
Năm Giáp Tý ( 1804), vua Gia Khánh đồng ý cho đưa di hài vua Lê, Thái hậu và các quan tùy tùng về táng quê nhà, chu cấp lộ phí và sai các quan địa phương giúp đỡ đưa ra khỏi ải. Mùa thu, di hài về đến Thăng Long, các quan cựu thần đến tế. Cuối đông năm đó, vua được táng cạnh lăng Hiển Tông trên núi Bàn Thạch (Thọ Xuân – Thanh Hoá).


KIẾN HÀO lạm bàn :

Hành vi rước quân xâm lược về cướp nước của Lê Chiêu Thống là một vết nhơ trong trang sử Việt, muôn đời không rửa sạch. Xưa nay không hiếm những kẻ giả nhân giả nghĩa, dùng lời nói huyễn hoặc để ngụy biện cho hành vi giả trá xấu xa của mình , nhưng có một kẻ mà họ không thể lừa dối được, đó chính là bản thân họ. Những Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống… ý thức rất rõ việc mình làm, cũng như biết trước sẽ chịu lời phê phán đến ngàn năm sau nhưng chỉ vì đặt quyền lợi trước mắt của bản thân và phe đảng, dòng họ lên trên lợi ích đất nước, nhân dân mà cam lòng làm tay sai cho ngoại bang. Lời trăng trối của Lê Chiêu Thống đã nói lên điều đó. Ngày nay, nghe nói đến Lê Chiêu Thống là mọi người nhớ ngay đến thành ngữ “cõng rắn cắn gà nhà ”. Thực ra trong vô số tội thì cũng phải có một chút công: một là khiến bọn bán nước, tay sai ngoại bang đời sau phải chùn tay ngần ngại, bớt liều lĩnh khi nhìn tấm gương của kẻ đi trước bị người đời nguyền rủa; hai là làm nhân vật phản diện, khiến cho hình ảnh vua Quang Trung càng thêm sáng rỡ .   
Xin trích ra đây một quan điểm điển hình, liên quan đến việc muôn đời sau là giữ nước và bảo vệ nền độc lập nước nhà :
Vua Trần Nhân Tông đã để lại di chúc như sau :
-“ Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái đạo. Họa muôn đời của nước ta là nước Tàu. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhắm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không lọt vào tay kẻ thù. Đây là di chúc cho con cháu muôn đời.”.
(10/2010)

Friday, October 29, 2010

Thói Hám Danh Nước Vệ

Lathiews

             Nước Vệ, mùa thu năm Canh Dần, bốn phương phẳng lặng, mưa thuận gió hòa, người người đều ra sức chăm lo làm việc, kho lẫm đầy đủ, việc giáo hóa nơi cửa Khổng sân Trình càng gặp nhiều thuận lợi.
             Có bọn mưu sĩ nhân thấy tình hình như vậy mới tranh thủ hiến kế với quan Lệnh Doãn ở chốn kinh thành :
- Đất kinh kỳ ta mang tiếng nghìn năm văn hiến nhưng công trình văn hóa thì có thể đếm chỉ trên đầu ngón tay. Như vậy sao xứng gọi là nơi hội tụ hiền tài, tập trung nguyên khí của quốc gia. Chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất với ngài một bước đột phá mới, gọi là khuyến khích tinh thần hiếu học và ghi nhớ nhân tài đất nước…
- E hèm. Nói gì thì nhanh lên, đừng vòng vo tam quốc làm ta sốt ruột.
- Dạ vâng. Như các triều trước vì ba năm mới mở một khoa thi nên nhân tài như (trên cây) mùa thu, số Tiến sĩ như chim (bay) buổi tối . Cũng vì ít ỏi như thế nên bọn thợ đá tạo tác mới có thời gian mà đục hình rùa đội bia trong Văn miếu. Nay ở chốn kinh đô ta, bậc Tiến sĩ đi lại đầy đường, còn bậc thấp hơn như Thạc sĩ, Cử nhân thì không tài nào đếm xuể. Để vinh danh họ, xin ngài đệ đạt lên trên, cho khắc họ tên, quê quán các Tiến sĩ đời nay vào bia cẩm thạch đưa vào nhà bia Văn miếu để cho các thế hệ trăm đời sau được tường.
- Nhà ngươi nói thật đúng ý ta. Vốn từ lâu ta đã bảo quan Tế tửu Tư nghiệp phải cố gắng lập kế hoạch sao cho trong vòng một giáp ( 12 năm ) tới , đào tạo cho được mười ngàn Tiến sĩ phục vụ trong bộ máy công quyền. Từ nay, phải tiêu chuẩn hóa trình độ công bộc, ghế nào tương xứng với bằng cấp nấy, bãi bỏ lệ sống lâu lên lão làng làm cản trở bước đường tiến thân của lớp kế thừa. Ai đỗ Tiến sĩ sẽ được đặc cách nâng lương, nâng bậc, quốc khố thanh toán lại đầy đủ chi phí học tập; kẻ nào học không nổi do chỉ số IQ quá thấp phải chịu giáng cấp hoặc hưu sớm trước tuổi.
            Phàm kẻ sĩ đang xuất thế làm nô bộc cho nhân dân, nghe nói hai từ “ hưu sớm ” như sét đánh ngang tai, sợ còn hơn bị bệnh nan y, chỉ mong sao lấy được tấm bằng  tiến sĩ danh giá để còn cơ hội phục vụ. Kể từ đó, ở đất kinh kỳ xuất hiện ngày càng nhiều các trung tâm luyện thi, đào tạo tại chức như nấm mọc sau mưa, khắp hang cùng ngõ hẽm cụt đâu đâu cũng vang lên tiếng ê a ngày đêm không dứt. Các quan trợ giảng chạy đi chạy lại giữa các lò đào tạo như bị ma đuổi, không còn thời giờ đâu mà đào sâu nghiệp vụ; tình cảnh không khác gì bọn con hát chạy sô. Chương trình học cũng bị cắt ngắn cho kịp thời gian thi sát hạch nên sách thánh hiền phải bỏ bớt như Tứ thư chỉ còn Tam Thư (bỏ Luận Ngữ), Ngũ Kinh chỉ còn Nhị Kinh (bỏ Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu ). Lại nữa phàm những sách toán pháp và thiên văn do bọn người nước ngoài như Phú Lãng Sa hay Anh Cát Lợi biên soạn, trong nước rất ít người có khả năng nghe, nói, đọc và viết được nên đa phần phải học qua sách dịch. Bọn rỗi hơi ở Kẻ chợ gọi mỉa là Tiến - sĩ - nhai - lại . Lượng thay đổi thì chất cũng thay đổi, học vị tiến sĩ xem ra cũng thường.
Giữa lúc đó bỗng có tin đồn ở Quốc Tử Giám đang liên kết đào tạo tiến sĩ với các nước Tây phương, chương trình nước ngoài nhưng không cần xuất dương, do các quan mắt xanh mũi lõ giảng có kẻ đứng cạnh phiên dịch, sách vở tài liệu cũng được dịch sang tiếng nước Vệ. Các quan kháo nhau: Phen này chúng mình nhận bằng nước ngoài; có chứng nhận của các quan Thị lang, Tham tri Bộ Lễ , để xem bọn xấu miệng trong nước còn nói gì nữa không .
Có điều do cái gì cũng nước ngoài nên học phí cũng tính bằng tiền nước ngoài, công khố phải một phen lao đao. Những kẻ biết việc mới cười (thầm) mà nói (nhỏ) với nhau rằng : “thói hám danh, chuộng khoa trương, chạy theo hình thức chỉ làm hao tốn quốc khố,  thực chỉ có lợi cho bọn đầu cơ, không khác gì đóng thêm cho chúng cái tủ đựng tiền ! ” .
Nghe nói hiện các quan bộ Lễ đang soạn kế hoạch xây dựng bốn trường Đại học thật oách ngang tầm quốc tế, cho bọn man di bốn cõi biết thế nào là nước Vệ.

Thursday, October 28, 2010

Tiến Sĩ Đạo Văn

LATHIEWS

Dư luận mạng và nhất là trong giới nghiên cứu khoa học Việt Nam mấy ngày nay hết sức xôn xao trước sự kiện tạp chí quốc tế EPL, một tạp chí nghiên cứu chuyên ngành vật lý có uy tín trên thế giới, gỡ xuống khỏi mạng ( retracted ) bài nghiên cứu “ Was the fine – structure constant variable over cosmological time?” (Hằng số tương tác điện từ có thay đổi theo thời gian? ) với lời công bố rõ ràng: plagiarism (đạo văn). Nghĩa là ăn cắp nói theo ngôn ngữ bình dân. Chuyện cũng không đến nỗi trầm trọng vì ăn cắp giờ là chuyện bình thường, nhưng đây lại là hành vi của mấy vị đạo cao đức trọng, tinh hoa của giới trí thức Việt Nam, gọi theo ngôn ngữ thời đại là thượng tầng kiến trúc, có thể nói là “thầy” của “thầy”; nhất là công trình nghiên cứu này nằm trong “danh sách các công trình nghiên cứu đã công bố trên các tạp chí quốc tế ” được Viện Năng Lượng Nguyên Tử Việt Nam biểu dương năm 2009.
Tác giả chính của bài báo tai tiếng nói trên là Lê Đức Thông, đang công tác tại Viện Vật lý Thành phố Hồ Chí Minh ( VVLTPHCM ) cùng với ba đồng tác giả là tiến sĩ Nguyễn Mộng Giao, trưởng phòng Vật lý năng lượng và Vật lý môi trường VVLTPHCM, tiến sĩ Trần văn Hùng, Trung tâm Nghiên cứu và triển khai công nghệ bức xạ VVLTPHCM và tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng ,Viện Vật lý Hà Nội. Ở đây xin không đi sâu vào phân tích nội dung bài báo; phần nào là sản phẩm của trí tuệ người viết, phần nào là photocopy; mà cái đáng để nói hơn là phản ứng và thái độ của người trong cuộc .
Thứ nhất bài đăng đã lâu, mãi đến số tháng 6 năm 2010 tạp chí EPL mới có tuyên bố rút lại. Nghĩa là có lý do để nghi ngờ lời khẳng định của quý tiến sĩ khả kính là hoàn toàn “không viết”, “ không tham gia ”, “ không đồng ý ”. Lẽ nào một bài báo viết cho một tạp chí chuyên ngành, do một nhóm người chung một cơ quan đơn vị gặp nhau hằng ngày, đứng tên đồng tác giả, mà lại bảo rằng không biết gì. Thái độ đó có thể gọi là ngây thơ “cụ”.  
Thứ hai , có thể hiểu việc chối bỏ liên can là để tránh búa rìu dư luận nhưng qua những lời trần tình đăng trên báo, lại cho thấy các vị đã giấu đầu lòi đuôi : tiến sĩ Giao đã được tham khảo ít nhất một phần nội dung bài viết, sau đó khi biết bài đã đăng cũng không có phản ứng gì. Ông viện dẫn lý do là quá bận (!) nên không có thời gian để đọc một công trình mà mình là đồng tác giả. Một nhà nghiên cứu khoa học vì quá bận nên không thể đọc bài nghiên cứu khoa học của mình được. Còn tiến sĩ Trần Văn Hùng thì xác nhận mình chỉ là người cung cấp số liệu cho tác giả chính chứ không trực tiếp viết và sau đó bài gởi đăng cũng không được hỏi ý kiến. Chính ông xác nhận bài đăng tổng cộng 5 trang, trong đó có khoảng ba trang là thông tin được trích dẫn mà không ghi rõ nguồn tài liệu tham khảo. Nói thẳng ra là lấy ý kiến của người khác làm ý kiến của mình. Và dù không viết nhưng thấy có ghi tên đồng tác giả cũng …không sao.
Thứ ba , quý tiến sĩ hoàn toàn có thể tự bảo vệ uy tín bằng cách trực tiếp gởi thư cho hai tạp chí trên khi bài mới đăng, xác định mình không phải là đồng tác giả của công trình nghiên cứu kia. Nhưng các vị đều giữ thái độ im lặng. Như vậy có thể hiểu ít nhất là đã có sự đồng tình. Dù vậy, khi việc đạo văn bị phát giác, tiến sĩ Giao lại dọa kiện tạp chí EPL vì đã đăng bài có tên ông mà chưa được sự đồng ý của ông. ( theo Thanh niên Online, trang web của tạp chí EPL có quy định, về việc tác giả ký khi bài báo chính thức được đăng như sau : trong trường hợp là một nhóm tác giả, chỉ có một tác giả được đại diện ký vào phiếu xác nhận bản quyền (copyright form ) nhưng phải được sự đồng thuận từ các tác giả còn lại ). Rõ ràng hoa thơm thì hưởng  mùi chung, còn xú uế thì đổ vấy hết cho người. Đó không phải là thái độ trung thực của người quân tử. Xin mạo muội nhắc lại lời răn dạy con trẻ mà ai ai cũng đều biết : “ Tiên học lễ, hậu học văn ”. Mong quý tiến sĩ lưu ý cho.
Thứ tư là những lời giải thích thiếu hẳn tính thuyết phục : “…Vì trình độ Anh ngữ của Thông chưa đạt đủ tầm để viết bài đăng lên tạp chí quốc tế . Nên đã xử dụng lại câu văn của người khác và thay thế vào đó số liệu của mình…( tiến sĩ Nguyễn Mộng Giao) hoặc : “…thực ra nói là đạo văn cũng hơi quá bởi trong bài viết có một phần khi trích dẫn Thông đã không nêu rõ nguồn tài liệu tham khảo . Nên vấn đề ở đây là lỗi do cách viết, còn thành quả khoa học thực sự rất có ý nghĩa…(tiến sĩ Trần Văn Hùng ). Một cách vận dụng từ ngữ quả là khéo léo, biến một con cáo thành ra một con dê tội nghiệp.
Cuối cùng xin trích nguyên văn một đoạn trong bài viết của nhóm phóng viên báo Thanh Niên Online, những người đầu tiên đã phanh phui ra việc làm xấu xa trên :
           “… Trước đó, vào tháng 2 năm 2010, trên trang Web chính thức, tạp chí Physics Letters B cũng có thông báo rút bài báo mang tên “ Search for Cosmological time variation of the fine-structure constant using low-redshifts of quasa” ( tạm dịch : Nghiên cứu sự thay đổi theo thời gian vũ trụ của hằng số đẹp sử dụng dịch chuyển đỏ - thấp của quasa ) của nhóm tác giả Lê Đức Thông, Nguyễn Mộng Giao và Trần Văn Hùng ra khỏi những bài báo trong giai đoạn “ in press” ( những bài báo đang được để trên mạng, trong giai đoạn xem xét chuẩn bị in trên tạp chí –ND) theo yêu cầu của ban biên tập.
            Đến đây thì có lẽ mọi người đều thấy rằng việc đạo văn của nhóm người này không phải chỉ là vô tình, và không chỉ một lần. Nếu không vấp phải phản ứng quyết liệt, dứt khoát của hai tạp chí uy tín trên thì rất có thể đến lượt… Ngô Bảo Châu sẽ thành nạn nhân tiếp theo của họ. Ai mà biết được. Có thể con người bằng xương bằng thịt Lê Đức Thông còn sống , sinh hoạt bình thường nhưng “ nhà nghiên cứu khoa học vật lý Lê Đức Thông ” xem như đã chết. Đó là cái giá phải trả cho những kẻ liều lĩnh, giả dối , bất lương và vô liêm sĩ.   

Nếu bạn nào chưa thỏa mãn , muốn biết đầy đủ hơn xin vào trang báo điện tử sau

Sunday, October 17, 2010

Xứ Bắc Hà thời Lê mạt

KIẾN HÀO

Nói về triều Lê Trung Hưng ( 1533 – 1786 ), khi Chúa Trịnh Tùng giúp vua Lê Thế Tông lấy lại kinh thành Thăng Long năm 1592, bắt giết cha con Mạc Mậu Hợp và đuổi dư đảng họ Mạc chạy lánh lên Cao Bằng, thì thanh thế Nam triều nổi lên rất mạnh nhưng cũng từ đó vua Lê bị họ Trịnh quản chế, bức bách rất ngặt; mọi chuyện đều không được tự chuyên, nhà vua chỉ còn có khoanh tay rũ áo ngồi giữa triều đình, như bù nhìn giữ dưa ngoài ruộng. Tuy nhiên về danh nghĩa tất cả đều phải chịu mệnh nhà vua, chính quyền vẫn quy về một mối. Đến năm 1599, Trịnh Tùng ép vua Lê Thế Tông phải phong Vương cho mình, được mở phủ đệ và bộ máy quan lại riêng. Từ đấy chính sự trong nước do Tùng quyết định, của cải, thuế khóa, quân lính… hết thảy đều dồn về phủ chúa. Muốn đưa vua nào lên ngôi là tùy quyền định đoạt của họ Trịnh; cũng như việc bổ nhiệm , thăng thưởng quan lại không cần báo trước…nên việc chúa hiếp chế vua mãi rồi mọi người đều xem là sự thường.
Kịp đến khi Trịnh Sâm lên ngôi ( 1767 ), nghiệp chúa đã truyền qua tám đời [1], trải hơn hai trăm năm; chế độ Lê - Trịnh đã bộc lộ hết những mặt yếu kém : kỷ cương phép nước bị xem thường, tình trạng lấn chiếm đất đai làm của riêng cho gia đình và họ tộc của quan lại triều đình , thổ hào địa phương ngày càng trầm trọng; cộng thêm nạn tham nhũng mua quan bán tước , nhất là chính sách ức thương đã đưa Đàng ngoài vào cuộc khủng hoảng mới. Đời sống nhân dân sa sút nghiêm trọng. Bất lực trong việc quản lý các công trình đê điều, các chúa Trịnh phó mặc cho quan lại địa phương thu tiền của dân và thuê người làm. Các quan lại nhân đó tha hồ vơ vét tiền của. Lụt lội, mất mùa xảy ra liên tiếp, gây ra những nạn đói lớn trong dân. Năm 1730, đê Hưng Yên bị vỡ, nước sông Nhị tràn ngập gây lụt lội. Những năm 1740, 1741, đói to ở các trấn đồng bằng, người dân phiêu tán dắt díu nhau kiếm ăn đầy đường. Làng xóm điêu tàn, kinh tế suy sụp, sức sản xuất bị tàn phá, nông dân bị lưu tán hoặc chết đói, chết bệnh đầy đường, người sống hoặc đi tha phương cầu thực, hoặc cố gắng cùng nhau khai phá đất hoang của các làng lân cận. Thế kỷ 18, Đàng ngoài chứng kiến bốn cuộc khởi nghĩa nông dân : Nguyễn Danh Phương ( 1740 – 1751), Nguyễn Hữu Cầu ( 1741 – 1751), Hoàng Công Chất ( 1739 – 1769), Lê Duy Mật ( 1738 – 1770). Các cuộc khởi nghĩa này đã góp phần đẩy chế độ Lê - Trịnh nhanh chóng đi vào sụp đổ [2] .


Trịnh Sâm chuyên quyền, giết Thái tử, say mê nữ sắc :


Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ( Cương mục), Thái tử Lê Duy Vĩ có lần cùng với Thế tử Trịnh Sâm gặp nhau ở phủ đường, được chúa Trịnh Doanh giữ lại ban cơm, hai người cùng ngồi chung một mâm. Bà chính phi họ Nguyễn, vợ của Trịnh Doanh, cũng là mẹ vợ Thái tử, ngăn lại và bảo rằng : “ Thái tử và Thế tử , danh phận là vua tôi, sao lại có thể cùng ngồi chung một mâm được ?” ; bèn sai người đưa Thế tử sang mâm khác. Tan bữa cơm ra về, Thế tử ngoảnh lại bảo với mọi người rằng : “ Vua ấy cũng không nên cùng đứng chung với chúa này, thề phải có một người sống một người chết, mới xong ”.
Khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm bèn sai hoạn quan Phạm Huy Đỉnh vu cho Thái Tử tư thông với một người thiếp của Trịnh Doanh, rồi đem tội đó tâu lên Hoàng thượng để bắt Thái tử bỏ ngục. Thái tử biết trước bèn trốn vào chổ ngũ của vua, có kẻ báo với Huy Đỉnh; hắn bèn vào thẳng cung điện của vua, hạch tội Thái tử và đòi người : “ Tôi nghe Thái tử náu trong tẩm điện của bệ hạ, xin hãy bắt giao cho tôi “. Nhà vua ôm mãi lấy Thái tử không nỡ rời, bọn Huy Đĩnh bèn quỳ mãi dưới sân điện. Liệu bề không thoát nổi, Thái tử liền khóc lạy Hoàng Thượng rồi ra chịu trói. Về đến phủ chúa, Phạm Huy Đỉnh bắt Thái tử cởi mũ nhận tội. Thái tử không chịu, nói rằng : “ Bỏ vua này, lập vua khác, làm chuyện bạo nghịch giết vua là thói quen của chúng mày, ta có tội tình gì đâu ? Việc này sẽ có sử xanh ghi chép lại cho ngàn đời rõ”. Trịnh Sâm giả thác là có mệnh lệnh của nhà vua, truất Thái tử làm thứ nhân, đem giam vào ngục. Được ít lâu, bọn tay chân Huy Đỉnh lại vu cáo Thái tử âm mưu vượt ngục, phải ghép vào tội giảo. Ngày hành hình, già trẻ trai gái ở kẻ chợ không ai là không rơi nước mắt. Ấy là ngày 20 tháng chạp năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng ( 1771).Trịnh Sâm hạ lịnh tịch thu sắc mệnh của vua ban cho Trần Hoàng hậu là mẹ của Thái tử (đã mất).
Như vậy trong lịch sử đã có ba lần chúa Trịnh giết vua Lê : Trịnh Tùng giết vua Lê Anh Tông, Trịnh Giang giết Lê Đế Duy Phường và Trịnh Sâm giết Thái tử Lê Duy Vĩ. Nguyên khi Thái tử bị bắt, thì một người đàn bà trong cung bế các con của Thái tử chạy trốn về phía Hà Tây, vào ngũ nhờ nhà một người dân ở làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm. Người dân này đêm trước đã mơ thấy có người bảo rằng :
- Mày phải quét rửa nhà cửa sân đường cho sạch sẽ, thiên tử và Thái hậu sắp sửa tới nơi”.
Tỉnh dậy hắn nghĩ bụng : “ Mình là nhà dân, đâu được cái may mắn có các bậc chí tôn ngự tới ?”. Rồi suốt ngày hôm đó, hắn ta chắp tay đứng đợi ở ngoài cổng nhưng đợi mãi mà vẫn chả thấy một ai. Đến xẩm tối mới thấy một người đàn bà bồng con xăm xăm tiến đến trước cổng xin ngũ nhờ ; hắn ta liền đón ngay vào trong nhà và mời ngồi lên chiếc phản cao nhất. Sau khi đã kể qua câu chuyện chiêm bao cho người đàn bà nghe, hắn ta lại nói :
- Cứ theo giấc mộng đêm qua của tôi như thế thì bà và các cậu đây hẳn phải là dòng dõi quý tộc nếu không phải thân thích nhà vua, ắt cũng là họ hàng nhà chúa !
Người đàn bà đó chính là cung phi họ Nguyễn, nghe nói vội gạt đi mà rằng :
- Câu chuyện chiêm bao, có gì là bằng cứ. Bác đừng nói nhảm, đó là việc chết người chứ không phải chuyện chơi đâu !
Ngay sớm hôm sau, mấy mẹ con lại từ giã chủ nhà mà ra đi. Nhưng chẳng bao lâu, bị người ta dò theo tông tích bắt được đưa về an trí ở trấn Sơn Tây, rồi lại bị giải về Kinh và bị giam ở ngục Đề lĩnh. Đó là ba hoàng tôn Duy Kỳ (Khiêm), Duy Trù và Duy Chỉ [3] .
Có một hôm, tiệp dư Trần Thị Vinh [4] sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi Trịnh Sâm ngồi. Ả họ Đặng này, quê ở làng Phù Đổng, mắt phượng mày ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông với ả. Năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 38 ( 1777 ), ả sinh cho chúa một đứa con trai, được đặt tên Cán. Hai mẹ con được Trịnh Sâm rất yêu mến nên từ đó Thị Huệ nuôi lòng cướp ngôi Thế tử cho con, mặc dù khi ấy ngôi Thế tử đã an định.


Vụ án năm Canh Tý (1780)


Lại nói về Thế tử Trịnh Tông (Khải) do Thái phi họ Dương tên Ngọc Hoan đẻ ra. Nguyên bà được tuyển vào cung đã lâu mà không được chúa đoái hoài tới, một hôm đem việc nằm mơ thấy hình rồng kể cho viên quan hầu là Khê Trung hầu nghe, vị này biết chắc là điềm sinh thánh [5]. Đêm sau, khi Trịnh Sâm cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu, Khê Trung hầu cố ý nghe lầm, đưa thái phi Ngọc Hoan vào. Thấy bà, chúa có vẽ không thích, nhưng đã trót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó Khê Trung hầu bị gọi vào trách mắng, mới cúi đầu tạ tội và kể lại chuyện nằm mơ trên. Sau cơn mưa móc, Thái phi sinh ra một trai là Trịnh Tông ( có sách chép là Trịnh Khải), nhằm năm Quý Mùi, Cảnh Hưng thứ 24 (1763).
Thói thường ghét mẹ giận lây con, nên chúa Trịnh viện cớ con thứ phi, không phải chính thất; Thái phi lại có gốc là dân làng Long Phúc ( Trịnh Cối, Trịnh Lệ là hai vương tử mưu đồ soán ngôi chúa, đều do người Long Phúc đẻ ra) nên không nhận lời chúc mừng ( sinh con trai) của các quan. Việc chăm sóc học hành của Thế tử cũng qua loa, đại khái ít nhận được sự quan tâm của chúa Trịnh. Năm Thế tử 15 tuổi, đúng lệ phải được mở phủ đệ riêng, nhưng Trịnh Sâm lờ đi, có ý chờ người khác. Năm ấy cũng là năm vương tử Cán ra đời, nên lòng người phân vân chia hai phe, mầm họa bắt đầu nảy nở từ đó.
Mấy năm sau, chứng bệnh cũ của Trịnh Sâm tái phát, có lúc thuyên giãm , có lúc nguy kịch , lại hạn chế người ra vào thăm viếng nên tin đồn đoán lan ra ngoài kinh thành rất nhiều. Trịnh Khải nhiều lần vào tẩm thất để thăm hỏi bệnh tình, nhưng Tuyên phi ( Thị Huệ) sai người ngăn trở không cho vào. Trịnh Tông lo lắng bàn với bọn gia thần :
- Vương thượng mắc bệnh mà ta không được vào chầu. Vạn nhất nếu xảy ra biến cố như ở Sa Khâu ( Tần Thủy Hoàng chết đột ngột, hai cố mệnh đại thần Lý Tư , Triệu Cao âm mưu sửa di chiếu, tráo người nối ngôi ), thì ta phải toan tính trước như thế nào ?
Bọn này bèn khuyên Thế tử nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ binh lính : nếu trong phủ có chuyện chẳng lành, thì lập tức đóng cửa thành, giết Quận Huy Hoàng Đình Bảo ( sau đổi là Hoàng Tố Lý) ) , bắt giam mẹ con Thị Huệ rồi báo trấn thủ Kinh Bắc, Sơn Tây đem quân về hộ vệ, gây áp lực buộc các đại thần phải tôn phò Thế tử lên ngôi chúa. Thế tử nghe lời, bèn chu cấp tiền bạc cho bọn chúng mộ quân, lại sai người đi mật báo cho hai viên Trấn thủ. Sắp xếp vừa xong thì bệnh Trịnh Sâm cũng vừa thuyên giãm, âm mưu của Thế tử hơi bị lộ.
Nguyên hồi ấy có tên Nguyễn Huy Bá, người ở Gia Lâm, tính tình nham hiểm giảo hoạt , trước đó do tham ô mà bị bãi chức, nay chuyên nghề tố cáo người khác để kiếm bổng lộc, quan tước. Hắn cho con dâu vào làm thị tỳ cho Thị Huệ, hàng ngày kể xấu Trịnh Tông để lấy lòng; một mặt cài người vào làm môn hạ cho hai viên trấn thủ Sơn Tây, Kinh Bắc để dò xét tình hình, chính nhờ vậy mà Huy Bá biết được cơ mưu của Thế tử, bèn báo ngay cho Thị Huệ.
Thị Huệ đem việc đó bàn với Quận Huy, Huy nhận đơn tố cáo của Huy Bá bỏ vào ống tay áo, tự mình đến phủ chúa, đuổi hết mọi người chung quanh rồi đem thư trình chúa. Trịnh Sâm muốn trị tội ngay nhưng Quận Huy can rằng :
- Sở dĩ Thế tử dám làm chuyện đại nghịch này là do có sự giúp sức của hai viên Trấn thủ kia. Ném chuột sợ vỡ đồ, nay xin hãy ban lệnh triệu hồi hai người kia về Kinh trước đã, sau mới bắt giam và luận tội ; như vậy sẽ tránh được những biến cố khác.
Trịnh Sâm cho là phải. Hôm sau Thế tử Trịnh Tông bị đòi vào cung, Trịnh Sâm giả cách quở mắng việc sao nhãng học hành rồi bắt ở riêng ra một nơi, cho người đến giảng dạy, không cho ra ngoài ( thực chất là giam lỏng ). Trấn thủ Sơn Tây Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Lệ ( Khản) vâng lịnh về triều, không ngờ tay chân thân tín đã bị bí mật bắt hết, bản thân ngồi chờ (định) tội ở nhà Tả xuyên. Kịp khi Trấn thủ Kinh Bắc Khê Trung hầu Nguyễn Khắc Tuân về tới Kinh, cả hai lập tức bị bắt giam, cùng a bảo Hân Quận công Nguyễn Phương Đỉnh là thầy dạy của Thế tử. Bọn gia thần của Thế tử là Đàm Xuân Thụ, Thế và Thẩm bị đem ra tra khảo đều nhận tội. Vụ án được giao xuống cho các quan tra xét.
Lại nói, lúc ấy ở trấn Kinh Bắc có viên Đốc Đồng là Ngô Thì Nhậm, tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775 ) vốn là gia thần và tuỳ giảng của Thế tử, một hôm tiếp tên học trò đang giữ sách cho Thế tử là Hà Như Sơn ( Sơn Thọ ), do Thế tử cử lên thông báo cơ mưu và lịnh cho Thì Nhậm lên vùng Cao Bằng Lạng Sơn lùng mua ngựa tốt để dùng vào việc binh. Thì Nhậm hoảng sợ, vội đem hết câu chuyện kể cho Khắc Tuân, nhưng viên trấn thủ Kinh Bắc này gạt đi ( do đã biết trước ), khuyên Thì Nhậm nên giữ kín việc này. Cùng về Kinh theo lệnh triệu hồi, tuy không bị giam nhưng tình thế của Thì Nhậm cũng rất nguy kịch. Nhận lời khuyên của Huy Bá và để giữ mình , Thì Nhậm bèn làm tờ khải tố cáo hết mọi âm mưu của Thế tử. Nhận được tờ khải, Trịnh Sâm nổi giận giao cho Thì Nhậm tra xét vụ án đó, chưa kịp làm thì được tin cha mất, Thì Nhậm phải về chịu tang. Vụ án được giao lại cho Nghĩa Phái hầu Lê Quý Đôn, Bảng nhãn khoa Nhâm Thân ( 1752 ) tra xét.
Theo Cương mục, khi nghe con là Ngô Thì Nhậm bàn việc tố cáo Thế tử, Ngô Thì Sĩ đã cố sức can ngăn nhưng Nhậm vẫn không nghe. Đến khi hay tin Nhậm đã phát giác việc ấy , Thì Sĩ bèn uống thuốc độc tự vận. Nhờ có công tố giác tội phạm, Thì Nhậm được thăng Hữu Thị lang Bộ Công ( thứ trưởng bây giờ ), trong dân gian mới có câu : “ Sát tứ phụ nhi thị lang ”, nghĩa là giết bốn người để được làm Thị lang, gồm Thì Sĩ ( cha ), Khắc Tuân, Chu Xuân Hán và Nguyễn Phương Đỉnh ( bạn của cha ).
Kết quả, hai viên trấn thủ phải chịu tội chết nhưng gia ân cho tự xử ( uống thuốc độc ), viên a bảo Nguyễn Phương Đỉnh bị kết tội nuôi dưỡng Thế tử không nên người, phải bị cách hết quan chức đuổi về quê; bọn Thụ , Thế, Thẩm đều chịu tội trảm, bọn liêu thuộc của Hồng Lĩnh hầu và Khê Trung hầu vì liên đới với chủ nên phải chịu tội chết cũng nhiều. Thế tử Tông bị truất xuống làm con út, suốt đời giử đạo làm tôi, ở trong gian nhà kín không được tiếp xúc với người bên ngoài. Như vậy ngôi Thế tử kể như bỏ không, nhưng mọi người đều biết sớm muộn sẽ được trao về tay Trịnh Cán, nên thế lực Thị Huệ ngày càng thêm mạnh, trong khi bọn bầy tôi của Trịnh Tông đều xa lánh chủ cũ, mỗi người lẩn trốn đi mỗi nơi.
Tháng 10 năm Tân Sữu ( 1781 ), nghe tin Trịnh Sâm có ý lập Trịnh Cán làm Thế tử, bà Thái Phi Nguyễn thị ( tức bà nội Trịnh Tông ) bèn vào cung nói với Trịnh Sâm :
- Tông với Cán đều là cháu nội già này, thực không xem ai hơn ai. Nhưng nghĩ rằng Tông đã trưởng thành còn Cán thì nhỏ tuổi lại hay đau yếu luôn; khuyên vương thượng hãy nghĩ đến tông miếu xã tắc, tạm thời để trống ngôi Thế tử, chờ xem Tông có ăn năn hối lỗi hay không. Bằng không thì chờ khi Cán lớn khôn rồi lập, tưởng cũng không muộn gì.
Trịnh Sâm đáp :
- Việc lớn của nước nhà, cốt sao tìm được người xứng đáng để phó thác. Tên Tông và Cán, đối với mẹ là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đã nói : “ Biết con không ai ngoài cha”, nay nếu không sớm định người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra dòm nom, trông chờ, tôi e tai họa sẽ xảy ra không biết lúc nào. Nếu như bệnh tình của Cán không khỏi thì thà lập Côn Quận công ( Trịnh Bồng - KH ), trả lại cơ nghiệp cho nhà bác [6] chứ không thể phó thác cho đứa con bất hiếu , để nó làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên được.
Thái phi không dám nói thêm gì nữa. Trịnh Sâm bèn làm tờ tâu, xin vua cho lập Vương tử Cán làm Thế tử. Lúc ấy Trịnh Cán mới 5 tuổi.
Tháng 9 năm Nhâm Dần ( 1782), bệnh chúa Trịnh trở nặng. Thường ngày chúa ở luôn trong cung để tránh nắng gió, thắp nến suốt ngày đêm. Các quan muốn trình báo việc gì đều do quan hầu đem tờ khải vào, Chúa muốn phán việc gì cũng do quan thị truyền chỉ ra. Thái phi và các công chúa cũng ít khi được diện kiến, chỉ đứng ngoài cửa buồng hỏi thăm qua bọn thị thần mà thôi. Trừ có Quận Huy và Thị Huệ là được ra vào thường xuyên. Nhân đó, Thị Huệ bèn nói với Trịnh Sâm rằng :
- Thiếp thờ chúa thượng, nhờ ơn được quá yêu thương thành ra nhiều kẻ thù ghét, không biết rồi đây mẹ con thiếp gởi thân vào đâu.
Trịnh Sâm an ủi rằng :
- Danh vị Thế tử đã định rõ, nước là nước của nó, sau này khanh sẽ mẹ của thiên hạ, kẻ nào còn thay đổi được ?
Bấy giờ Quận Huy cũng ở đó, Trịnh Sâm bèn ủy thác cho Huy làm phụ chính, nhân đó Quận Huy đề cử thêm sáu phụ chính đại thần cùng nhận cố mệnh : Khanh Quận công Trịnh Kiều, Hoàn Quận công Nguyễn Hoàn, Tứ Xuyên hầu Phan Lê Phiên, cùng bọn hoạn quan là Châu Quận công, Diễm Quận công và Thùy Trung hầu. Quận Huy liền sai Tứ Xuyên hầu thảo tờ cố mệnh ( di chiếu cho Trịnh Cán lên thay), Thiêm sai Nhữ Công Điển làm tờ sắc sách phong Tuyên phi ( cho Thị Huệ), dấu trong tay áo mà vào cung. Nhưng khi ấy Trịnh Sâm đã quá yếu không thể tự điền tên Cán vào tờ cố mệnh nên Quận Huy xin cho Trịnh Kiều ghi thay. Trịnh Sâm gật đầu đồng ý, ghi xong dâng lên thì Trịnh Sâm mắt nhắm nghiền không biết gì nữa, chỉ một lát sau là mất, thọ 44 tuổi ( 1739 – 1782). Bữa ấy là nhằm ngày 13 tháng 9 năm Nhâm Dần ( 1782).
Tờ cố mệnh và sắc sách phong được dâng lên vua Lê, ngay hôm ấy vua hạ sắc dụ lập Thế tử Trịnh Cán làm Điện Đô Vương. Trăm quan đồng lạy chào chúa mới, xong tất cả thay triều phục mặc áo trở để làm lể phát tang. Kể từ đó, Huy Quận công Hoàng Đình Bảo quyết định mọi việc lớn nhỏ trong triều chính, vì chúa còn nhỏ nên người trong nước ngờ rằng sớm muộn sẽ có “Lê Hoàn thứ hai” xảy ra [7] . Ngoài chợ người ta bàn tán xôn xao, lại có kẻ đặt câu ca dao :
“ Trăm quan có mắt như mờ
Để cho Huy Quận vào sờ chính cung”
Lại cũng có câu :
“Đục cùn thì giữ lấy tông
Đục long cán gãy còn mong nỗi gì”
Huy nghe tin bèn sai quan Đề Lĩnh đem móc sắt và kéo treo khắp chợ, dọa rằng ai còn tụ tập bàn chuyện phiếm thì sẽ cắt lưỡi đi. Từ đó mọi người chỉ lấy mắt nhìn nhau chứ không dám nói chuyện công khai như trước nữa. Lòng người ly tán, ai ai cũng ghét Quận Huy và Thị Huệ nhưng vì sợ uy nên chỉ dám lén đồn đoán chổ riêng tư mà thôi.


Loạn kiêu binh


Lại nói từ thời Lê Trung Hưng, triều đình có lệ thường tuyển lính bảo vệ hoàng cung và phủ chúa từ hai đất thang mộc là Thanh Hoa - Nghệ An . Thanh Hoa ( từ thời Minh Mạng gọi là Thanh Hóa) được chia làm hai phủ là Tĩnh Gia và Hà Trung ; còn Nghệ An chỉ có một phủ là Anh Đô. Nên lính Thanh - Nghệ còn được gọi là quân tam phủ hoặc ưu binh. Chế độ đãi ngộ cũng cao hơn lính tuyển bốn nội trấn ( Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam và Hải Dương ) gọi là nhất binh.
Một tháng sau ngày Trịnh Cán lên ngôi chúa, một hôm có tên bề tôi của Trịnh Tông là Dự Vũ lẻn vào nơi tụ tập uống rượu của bọn ưu binh, khéo léo dùng lời lẽ kích động bọn chúng chống lại Quận Huy và tôn phò Thế tử Trịnh Tông. Mọi người đều reo hò hưởng ứng, tên Biện lại của đội quân Tiệp bảo là Bằng Vũ đứng lên nói :
- Nếu mọi người đồng lòng thì chẳng qua chỉ cần đợi xong lễ tế buổi sáng, đánh ba hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi nhất tề kéo đến lôi nó xuống vứt dưới thềm là xong thôi mà !
Lại có tên nho sinh Bùi Bật Trực nêu ý kiến :
- Đây là việc hệ trọng, nên nhờ Quốc cữu Viêm Quận công Nguyễn Trọng Viêm tâu với Thánh mẫu ( mẹ Trịnh Sâm), nếu chẳng may (Hoàng) Đình Bảo biết được thì cứ bảo là có mật lệnh của Thánh mẫu, việc gì minh bạch cũng hay hơn.
Bà Thánh mẫu ( gọi đúng là Trịnh thái phi họ Nguyễn) không muốn binh sĩ làm kinh động nên sai người đến thuyết phục Quận Huy tạm thời cho Trịnh Tông tạm giữ ngôi chúa cho yên lòng quân sĩ. Quận Huy cương quyết cự tuyệt. Thế là tất cả phó mặc cho quân sĩ muốn làm gì thì làm.
Sáng ngày 24 tháng 10, lễ cúng cơm bữa sáng vừa xong, Bằng Vũ lẻn vào trong phủ đánh luôn ba hồi chín tiếng trống. Quân sĩ ồ ạt xông vào, phá tan cửa phủ, lôi Quận Huy từ trên mình voi xuống, thi nhau đánh đập đến chết. Em Quận Huy là Khanh Quận công Hoàng Lương cũng bị loạn quân giết chết. Quân sĩ kéo nhau đến nhà giam, phò Thế tử Tông lên phủ đường. Trong lúc gấp gáp, họ dùng tạm chiếc mâm cỗ đặt Thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng, có lúc lại kê cao mà đội trên đầu, khi mõi lại hạ xuống vai, cứ thế suốt một chặp trong tiếng reo hò không ngớt của quân sĩ và dân chúng đứng chật sân phủ đường. Sắc chỉ của nhà vua sau đó phong Trịnh Tông làm Nguyên soái, tước Đoan Nam Vương, truất Trịnh Cán làm Cung Quốc công, nhưng chỉ mấy hôm sau thì Cán đã chết vì bệnh.
Quân sĩ thả cửa cướp bóc, phàm những ai thuộc bè đảng họ Đặng và họ Hoàng cùng những người can dự vào việc tố cáo vụ án năm Canh Tý đều bị quân sĩ phá tan nhà cửa, việc lùng bắt giết người diễn ra ngay giữa ban ngày, không cần xét xử. Kinh thành bị náo động đến mấy ngày mới yên.
Triều đình định công ban thưởng, tất cả quân sĩ ưu binh đều được ban thưởng tiền bạc, đặc biệt những người khởi xướng đều được thăng chức. Tuy nhiên do cậy công nên bọn kiêu binh này ngày càng quá quắt, nhúng tay vào cả những việc của chính phủ như tố tụng, hoặc thay đổi nhân sự. Luật lệ chỉ ràng buộc được họ một cách lỏng lẻo mà thôi.
Hai tháng sau ngày khởi loạn của kiêu binh, những đại thần nhận cố mệnh giúp rập Trịnh Cán đều bị bãi chức. Vợ và hai con quận Huy bị giam vào ngục, bị Trịnh Thái phi trả thù hành hạ đến chết, kể cả Đặng Thị Huệ cũng bị bức phải uống thuốc độc tự vận. Tất cả những kẻ tố giác vụ án năm Canh Tý đều bị bắt làm tội, trừ Ngô Thì Nhậm không biết trốn đi đâu [8] . Còn những người đã bị chết vì vụ án thì được truy phong chức tước và lập đàn chay cầu siêu giải oan. Riêng có viên trấn thủ Sơn Tây là Nguyễn Khản ( hay còn gọi Nguyễn Lệ), con Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân [9] , đã bị Trịnh Sâm xử tội chết trong vụ án năm Canh Tý nhưng nhờ trong ngục làm bài Tự Tình khúc, kể lại công lao giúp chúa từ thời thơ ấu , nhờ người lén đưa giấu cho Trịnh Sâm. Đọc xong, Trịnh Sâm động lòng thương nên đặc cách cho giảm nhẹ tội, chỉ bắt giam.
Khi ấy, Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ ( con của Thái tử Lê Duy Vĩ đã bị Trịnh Sâm bức chết năm xưa) nay đã 17 tuổi, vẫn còn bị giam trong ngục. Nhân khi phò Thế tử Tông làm chúa, quân sĩ cũng mang kiệu tới nhà giam rước hoàng tôn về cung vua. Bà Trịnh Thái phi sợ Thái tử Lê Duy Cận mất ngôi đông cung, bèn âm mưu triệu hoàng tôn vào cung rồi sai người bức hoàng tôn phải nằm lên cáng, định đem đi dìm xuống sông. Trên đường đi, nghe tiếng kêu la trong cáng, lính canh sinh nghi quát dừng lại. Bọn phu kiệu bỏ chạy, nhờ đó hoàng tôn thoát nạn. Bọn lính kéo nhau vào phủ, muốn tìm cho ra kẻ chủ mưu, thấy chiếc kiệu Thái tử để trong sân, quân lính tức giận phá tan chiếc kiệu. Thái tử Cận hoảng sợ phải cải trang làm thường dân mà lẻn về cung.
Trịnh Tông biết việc đó là do bà mình làm ra, muốn yên lòng quân sĩ bèn tâu vua xin lập Hoàng tự tôn làm Thái tử, truất Thái tử Cận làm Sùng Nhượng công. Đến đây lại phát sinh một nhân vật hiểm giảo nữa là Mai Doãn Khuê, người La Sơn Nghệ An, vì muốn lập công với họ Trịnh, bèn vu cho bọn kiêu binh đang âm mưu tôn phò Thái tử Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, bỏ hết quyền bính của chúa, để họ càng được tự tiện hơn nữa. Trịnh Tông tin là thật, bắt đầu có ý nghi ngờ Thái tử và bọn kiêu binh.
Một hôm, bọn kiêu binh họp nhau, cậy công đã rước hoàng tôn về nên kéo nhau đến sân điện, xin hoàng thượng ban thưởng. Nhà vua sai người đánh cá hồ Sen lên, chọn lấy cá trắm làm gỏi thết đãi cả bọn, định sẽ từ từ bàn đến ban thưởng. Có kẻ biết chuyện, nhanh chân chạy báo cho phủ chúa. Bọn Dương Khuông và Nguyễn Khản ( Lệ) bèn tâu chúa xin phái quân đến bắt giết đi.
Chúa Trịnh sai viên Thủ hiệu đội Nhưng nhất là Triêm Vũ hầu dẫn quân sang sân điện vây bắt. Bọn kiêu binh đang ăn uống, thấy quân lính tới bèn bỏ chạy tán loạn. Triêm Vũ hầu dẫn giải bảy tên bị bắt về phủ chúa , khép vào tội tự tiện xâm nhập hoàng cung, phải tội chém đầu. Sau vụ này, kiêu binh tức giận bàn với nhau :
- Có được triều đình cung vua phủ chúa ngày hôm nay là nhờ công chúng ta. Nay họ lại trả oán như thế, nếu cứ nín nhịn mãi thì có khác gì bó đũa bị bẻ từng chiếc ?
Hôm sau vào buổi tan chầu, cả bọn kéo nhau đến phá tan nhà Nguyễn Khản ( Lệ), Dương Khuông và Triêm Vũ hầu. Tìm không thấy người, biết Dương Khuông và Triêm Vũ hầu đã trốn vào phủ chúa , cả bọn bèn kéo sang phủ chúa đòi bắt. Trịnh Tông cùng Dương thị ( mẹ Trịnh Tông, chị ruột Dương Khuông) phải đem tiền ra chuộc mạng cho Dương Khuông, còn Triêm Vũ hầu theo lịnh Trịnh Tông đành phải tự ra nộp mạng cho kiêu binh, chỉ một lát sau đã bị chúng dùng gạch đá đập chết. Riêng Nguyễn Khản đã nhanh chân chạy lên Sơn Tây trốn thoát. Quân lính vẫn chưa đã nư, bèn yêu cầu chúa xét lại vụ án vừa qua. Nguyễn Khải (Lệ), Dương Khuông đều bị bãi chức làm dân thường. Bảy tên lính bị chém đều được đền mạng. Từ đó, kiêu binh lại càng ngông nghênh, ngoài đường phố họ cứ giăng tay đi, các quan gặp phải đều phải quay xe tránh đi lối khác. Kỷ cương phép nước bị xem nhẹ, hở một chút là bọn kiêu binh dọa sẽ phá nhà hoặc giết chết. Thậm chí , cả đến việc thay đổi các quan văn võ cũng phải hỏi quân sĩ mới xong, việc nước không sao tính nổi.
Nguyễn Khản ( Lệ) trốn thoát lên Sơn Tây, nơi có người em là Nguyễn Điều đang làm Trấn thủ. Cả hai bàn nhau viết tờ mật khải gởi Trịnh Tông xin hẹn ngày hội quân bốn trấn về Kinh diệt kiêu binh. Không ngờ kế hoạch đang dở dang thì bị lộ, kiêu binh quản thúc rất ngặt, đúng ngày 28 tháng giêng nhuận năm đó, thuyền của Hoàng Phùng Cơ từ trấn Sơn Nam về đậu ở bến Tây Long chờ nhưng Trịnh Tông không thể nào rời khỏi phủ được vì bị kiêu binh vây chặt, khám xét từng người ra vào.
Lúc bấy giờ cả kinh thành náo động, dân làng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài thành chạy trốn. Bọn kiêu binh vừa sợ vừa tức, gọi chúa Trịnh là giặc, rồi họp nhau thành đội ngũ, kéo vào trong phủ tước hết khí giới bọn cấm vệ; suốt ngày đêm chia nhau đi lại rầm rập trên đường; kinh thành hầu như sắp vỡ. Quân các trấn theo hẹn cũng rầm rộ kéo về, dân tình hết sức nhốn nháo. Kiêu binh hai xứ Thanh - Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn , lúc đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hể kẻ nào buột miệng nói ra thổ âm Thanh- Nghệ , tức thì bị dân chúng bắt giết ngay. Mãi đến khi quân các trấn tự động bãi binh, ai về xứ nấy thì tình hình mới yên ổn trở lại nhưng cũng từ đó, quân dân coi nhau như cừu thù, mỗi khi ra ngoài thành, quân sĩ phải kéo nhau đi hàng đoàn. Hễ quân sĩ nào mà đi một mình, thường bị dân chúng chặn đường giết ngay.

Tây Sơn tôn phù nhất thống, yên định Bắc Hà

Tổ tiên bốn đời của ba anh em nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, gốc là dân huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Năm 1655 quân chúa Nguyễn Phúc Tần ( Hiền Vương ) vượt sông Gianh đánh bại quân Trịnh, chiếm giữ các huyện Nam Lam Giang ( Kỳ Hoa, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn và Thanh Chương ).Khi rút về Nam đã bắt dân ở đấy về theo, cho định cư ở ấp Tây Sơn huyện Quy Ninh ( Hoài Nhơn , Bình Định ). Đời cha là Hồ Phi Phúc dời nhà đến huyện Tuy Viễn. Sách Đại Nam liệt truyện chính biên- sơ tập chép :
“ Nhạc người huyện Phù Ly, làm nghề buôn lá trầu.Sau làm Biện lại ở bến tuần Vân Đồn, lỡ tiêu hết tiền thuế, Đốc trưng là Đằng truy bắt rất khẩn cấp, bèn vào núi làm kẻ cướp ”.
Năm Bính Ngọ ( 1786), Nguyễn Huệ vâng lịnh Nguyễn Nhạc dẫn quân từ thành Quy Nhơn tiến ra đánh Phú Xuân. Huệ nghe lời hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh, lập kế ly gián hai tướng giữ thành là Phạm Ngô Cầu và Phó tướng Hoàng Đình Thể, chỉ một trận đánh đã giết Thể tại trận, Phạm Ngô Cầu mở cửa thành đầu hàng, số tướng tá binh sĩ bị chết quá nữa, số còn lại bỏ chạy cũng bị thổ dân giết sạch [10]. Đất Thuận Hóa thuộc về Tây Sơn , bấy giờ là ngày 14 tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) niên hiệu Cảnh Hưng.
Nguyễn Hữu Chỉnh vì có mối thù với Trịnh Tông , muốn bắt chước gương Ngũ Tử Tư [11] nên khuyên Nguyễn Huệ thừa thắng tiến ra Bắc, giương lá cờ “ Phò Lê Diệt Trịnh” để tranh thủ nhân tâm. Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau :
“ Lúc ấy Chỉnh nói với Bình rằng :
- Ngài vâng mệnh ra lấy Thuận Hoá, đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Phép dùng binh có ba điều cốt yếu, một là “thời”, hai là “thế” , ba là “cơ”; ba điều ấy mà có cả thì đánh đâu cũng thắng. Nay ở Bắc Hà, tướng lười binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói : “ Chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong”. Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ !
Bình đáp :
- Bắc Hà là một nước lớn , có nhiều người tài. Lời xưa có nói “ con ong có nọc”, há có thể khinh thường được ư ?
Chỉnh nói :
- Người tài ở Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này mà thôi. Nay tôi đã đi rồi ấy là cái nước rỗng không, xin ngài chớ nghi ngại.
Bình vốn khéo dùng ngôn ngữ để bẻ người , liền đùa rằng :
- Không nghi ngại người nào khác, hóa ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư ?
Chỉnh tái mặt mà tạ rằng :
- -Sở dĩ tôi tự nêu lên cái ngu hèn của mình như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng nước tôi không có người tài nào đó mà thôi”.
Quân Tây Sơn vượt sông Gianh đi đến đâu , quân giữ đồn của chúa Trịnh bỏ chạy đến đấy. Trấn thủ Nghệ An là Đương Trung hầu Bùi Thế Toại, trấn thủ Thanh Hoa Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy thấy bóng quân Tây Sơn đều bỏ chạy mà không dám đánh một trận nào. Ngày mùng 6 tháng 6 năm 1786 , trấn Sơn Nam cũng rơi vào tay Tây Sơn, thủy quân của Liễn Trung hầu Đinh Tích Nhưỡng bị đánh thua tan tác. Tin thất trận liên tiếp báo về kinh đô, Trịnh Tông định bỏ chạy lên Sơn Tây thì bị kiêu binh biết được ngăn lại, đành phải gọi Thạc Quận công Hoàng Phùng Cơ đem quân về cứu giá. Quân Tây Sơn lại đánh tan quân Hoàng Phùng Cơ tại cửa Thúy Ái ( Thanh Trì, Hà Đông ngày nay), Trịnh Tông vội vàng bỏ kinh thành mà chạy, ngày 26 tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ vào Thăng Long.
Tình hình hổn loạn của kinh thành lúc ấy được Hoàng Lê Nhất thống chí ghi lại như sau :
“ …nhân lúc rối ren, dân chúng ở xung quanh Kinh thành tha hồ rủ nhau đón đường cướp bóc. Ngựa xe, của nả của các họ hàng nhà chúa và của các đại thần, đại phu đều bị họ lấy sạch, không biết bao nhiêu người chỉ còn trơ chiếc mình không mà chạy.
Còn bọn kiêu binh, sau khi tan vỡ đều phải chạy trốn đi các nơi. Nhưng chúng đến đâu cũng bị dân quê kể tội kiêu ngạo lộng quyền ngày trước và làm cho nhục nhã đủ đường, không có ai chứa chấp.
Bữa ấy, có một người cởi trần trùng trục cũng ở trong thành chạy ra, khi qua cửa ô bị dân chúng trông thấy, họ liền chỉ mặt mà nói :
- Thằng bụng phệ kia chẳng phải lính Nhưng, Kiệu là gì, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi.
Người ấy vội đáp :
- Không phải, ta là Huyện Úy huyện Thọ Xương đây !
Mọi người cùng cười mà rằng :
- Người ta thường nói “ bụng to như bụng ông huyện” thật không sai !
Người ấy cũng cười rồi đi.
Ngày hôm đó lính Thanh - Nghệ dắt díu nhau về quê, bị đói khát ở dọc đường, lại chết thêm đến hàng trăm tên…”.
Về cái chết của Trịnh Tông , sách Cương mục ghi lại như sau :
“ Khi Trịnh Tông đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lãng thì quân sĩ đi theo đã chạy tan tác hết. Bấy giờ, có viên Thiêm sai, làm việc ở Lại Phiên là Lý Trần Quán, trước đó được cử đi truyền hịch để chiêu mộ nghĩa binh, bất ngờ gặp Trịnh Tông. Lý Trần Quán giả vờ nói với người hoc trò của mình là Nguyễn Trang rằng :
- Đây là quan Tham Tụng, người họ Bùi đi lánh nạn đến, anh hãy hộ vệ ngài, đưa ngài qua bên kia địa giới của huyện này.
Nguyễn Trang biết đó là chúa Trịnh, bèn cùng đồ đảng là Nguyễn Bá bắt Trịnh Khải bỏ cũi định nộp cho Tây Sơn lấy thưởng. Lý Trần Quán được tin ấy, vội vàng chạy đến, vừa lạy vừa khóc, nói rằng :
- Đẩy chúa vào tình thế này, tội là ở thần.
Xong lấy nghĩa lớn ( của đạo chúa tôi) mà khuyên bảo Nguyễn Trang, nhưng Trang lại nói :
- Sợ thầy không bằng sợ giặc, quý chúa chẳng bằng quý thân !
Nói rồi hắn giải Trịnh Tông đi. Dọc đường Trịnh Tông thừa lúc sơ hở bèn dùng dao cắt cổ tự tử. Nguyễn Trang đem thi thể của Trịnh Tông nộp cho giặc. Nguyễn Văn Huệ sai sắm đủ áo quan để khâm liệm và tống táng cho Trịnh Tông,, bổ dụng Nguyễn Trang làm trấn thủ Sơn Tây, lại còn phong cho làm Tráng Liệt hầu...” .
Ngày hôm ấy là ngày 27 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) niên hiệu Cảnh Hưng. Dân kinh kỳ nhiều người quy tội gián tiếp giết chúa cho Nguyễn Hữu Chỉnh, gọi hắn là cõng rắn cắn gà nhà. Cái chết của Trịnh Tông cũng chấm dứt sự tồn tại của chính quyền vua Lê – chúa Trịnh độc đáo, có một không hai trong lịch sử Việt Nam . Theo chính sử, Trịnh Tông ( Khải ) là vị chúa đời thứ 11, nếu kể khởi thủy từ Trịnh Kiểm thì đến Trịnh Tông, họ Trịnh đã có mặt trên vũ đài chính trị 243 năm [12]. Mặc dù sau này có sách còn kể thêm Trịnh Bồng nhưng thời gian tự lập làm chúa quá ngắn ngủi, từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1786 thì bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi mất tích luôn, không biết sống chết ra sao. Tháng chạp cùng năm, sau khi Trịnh Bồng bỏ chạy thì toàn bộ lâu đài cung khuyết huy hoàng của các đời chúa Trịnh bị đốt cháy ra tro hết.
Nhìn chung, sử gia đời sau thường có cái nhìn khắt khe khi nhận định về các chúa Trịnh như chuyên quyền, độc đoán, hiếp chế và bức hại vua Lê, ức thương, nhất là hai cuộc chiến tranh Lê Trịnh - Mạc và Trịnh - Nguyễn kéo dài đã làm đời sống nhân dân bị kiệt quệ, đói khổ. Bỏ qua những gam màu chính trị đen tối kia thì chính trong thời kỳ ấy, nền văn hóa truyền thống dân gian đồng bằng sông Hồng được bảo tồn và phát huy rất tốt sau lũy tre làng, cũng như tiểu thủ công nghiệp rất phát triển mà Gốm Bát Tràng là một ví dụ.
Ngay khi vào Thăng Long, Nguyễn Huệ đã vào hoàng cung diện kiến vua Lê, xác định rõ chủ trương tôn phò vua Lê diệt cường quyền họ Trịnh, định lại nền nhất thống nước nhà. Vua Lê Hiển Tông phong cho Nguyễn Huệ làm Uy Quốc công, lại đem con gái là công chúa Ngọc Hân gả cho . Sau đó là một loạt những sự kiện chính xảy ra liên tiếp trong một thời gian ngắn, được Hoàng Lê nhất thống chí ghi lại như sau :
Ngày mùng 10 tháng 7, diễn ra lễ cưới Nguyễn Huệ và Ngọc Hân công chúa.
Ngày 14 bệnh vua Lê trở nặng.
Ngày 15, vua Lê gắng gượng ngự triều ban chiếu bá cáo nói về việc nhất thống.
Ngày 17, vua Lê băng hà, thọ 70 tuổi [13] . Thái tử Duy Kỳ lên nối ngôi , đặt niên hiệu là Chiêu Thống, lấy năm 1787 làm năm thứ nhất.
Ngày mùng 5 tháng 8, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc ra tới Thăng Long.
Ngày 18 , Tây Sơn bí mật rút hết quân về nước. Bị bỏ rơi, Nguyễn Hữu Chỉnh lật đật dong thuyền đuổi theo, đến Nghệ An thì đuổi kịp, Nguyễn Huệ lưu Chỉnh ở lại đó, đóng quân làm kế thanh viện.
Đến đây thì việc tôn phò nhất thống đã gom về một mối, triều Lê lại làm chủ một dãi giang sơn từ Cao Bằng cho đến Thanh Hoa. Tuy nhiên thói quen ỷ lại vào nhà chúa [14] lâu ngày đã khiến các vua Lê không còn khả năng tự mình giữ việc triều chính nữa, kể cả chính lệnh của vua ban ra cũng chẳng được được ai thi hành. Mọi người đều lấy chữ tư lợi làm đầu; bọn thổ hào, châu mục các trấn tụ tập binh mã cát cứ khắp nơi; nhân đấy nạn cướp bóc nổi lên, thật là không ai dập tắt được.


Hậu vận của Triều Lê :


Vua Lê Chiêu Thống lên ngôi trong lúc chính sự đổ nát, lòng người ly tán, lần lượt từng gương mặt loạn thần lộng quyền hiện ra trên sân khấu chính trị như một trò hề, từ Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng, Dương Trọng Tế, Trịnh Bồng… rồi đến đệ nhất gian hùng đất Bắc là Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi chúa, hiếp vua, tự chuyên mọi chuyện. Đến khi Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền bị Nguyễn Huệ giết chết, vua Lê bỏ kinh thành mà trốn đi, trong nước không có người làm chủ… Nhân đấy Nguyễn Huệ cắt đặt lại quan chức, cho Sùng Nhượng công Lê Duy Cận tạm quyền Giám quốc ( bù nhìn), Ngô Văn Sở coi việc quân sự toàn cõi Bắc Hà, các quan cựu thần triều Lê thì đa số trốn tránh hoặc chạy theo vua Lê, chỉ một số ít ra nhận quan tước của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan …độ sáu bảy người [15] . Ấy là do tư tưởng chính thống trung quân còn nặng, mọi người đều coi Tây Sơn là kẻ ngoài , một số lại coi như thù địch .
Chính quyền lúc ấy là chính quyền của Tây Sơn, quân đội là quân đội của Tây Sơn, quan chức do Tây Sơn đặt để, quyền điều hành mọi việc đều do tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở quản lĩnh. Đến đây thì xem như nhà Lê đã cáo chung, mặc dù thực tế sau đó Lê Chiêu Thống có theo chân quân xâm lược nhà Thanh về nước ( tháng 12 năm 1788 ), nhưng khoảng thời gian ngắn ngủi đó lại chỉ lo trả ân trả oán, vả lại trên giấy tờ công văn gởi đi đều ghi niên hiệu Càn Long chớ không dám ghi là Chiêu Thống vì ngại Tôn Sĩ Nghị.
Sau trận đại thắng quân Thanh rung trời chuyển đất mùa Xuân năm 1789 của Hoàng Đế Quang Trung, Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Trung Quốc; tháng 10 năm Quý Sữu (1793) thì mất, hưởng dương 29 tuổi. Năm 1804, di hài được đưa về an táng ở lăng Bàn Thạch ( Thọ Xuân, Thanh Hóa ngày nay) .
Triều Hậu Lê, kể từ Lê Thái Tổ mở nước dựng nghiệp đến Lê Chiêu Thống, trên danh nghĩa là được 360 năm, nhưng chỉ có 100 năm đầu là có quyền lực thực sự. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc, sử cũ gọi là ngụy triều. Năm 1533, Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông lên ngôi tại Thanh Hoa, bắt đầu giai đoạn triều Lê Trung hưng mà các vua Lê chỉ là bù nhìn, quyền chính đều nằm trong tay họ Trịnh. Cuối thời Trịnh Sâm trở đi thì đất nước rơi vào loạn lạc, chia rẽ trầm trọng, sử gọi là thời Lê mạt.
Triều đại của Hoàng Đế Quang Trung quá ngắn ngũi khiến mọi người đời sau đọc sử đều lấy làm tiếc, những cải cách do vua Quang Trung thực thi đều chưa phát huy tác dụng; cũng như chưa lấy trọn lòng tin của sĩ phu hai miền Nam, Bắc còn nặng lòng với chúa cũ. Cái chết đột ngột của vua Quang Trung cộng thêm sự mâu thuẫn nội bộ là hai nguyên nhân chính khiến triều Tây Sơn nhanh chóng đi vào sụp đổ.


Tâm trạng của sĩ phu Bắc Hà thời Lê Mạt :


Xứ Bắc Hà vẫn tự hào ngàn năm văn hiến, gọi Tây Sơn là “ giặc mọi” [16], nhưng thực ra khi ấy Thăng Long đang lâm vào cảnh loạn lạc, ly tán, tàn phai và thoái trào. Đạo đức suy đồi; các giá trị truyền thống bị đảo lộn, nạn mua quan bán tước, nhũng nhiểu hoành hành, khắp nơi đều là chiến trường. Những kẻ tự xưng trí thức khoa bảng chỉ thập thò nơi cung vua phủ chúa, gây bè kéo cánh, chăm chăm bắt bẻ lời nói của nhau hoặc kể tội người khác để lập công; bọn võ quan khi ở triều đình thì bẻm mép, giặc đến thì lủi nhanh hơn “ heo bị lang đuổi”, có mấy ai còn ý thức vì dân vì nước. Trong cung đình thì rặt một bọn khoác lác, đón ý chúa mà mưu cầu lợi riêng. Chốn hậu cung thì cũng góp phần vẽ nên bức tranh vân cẩu, thật là làm trò cười cho hậu thế. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, trách bọn kiêu binh làm quá thì cũng phải trách những kẻ đã góp phần tạo ra kiêu binh.
Có thể xem câu nói của tên cường đạo Nguyễn Trang “ sợ thầy không bằng sợ giặc, quý chúa không bằng quý thân mình ” là tuyên ngôn xử thế lúc ấy của nhiều người, cũng là cây đinh cuối cùng đóng vào nắp quan tài chế độ Lê-Trịnh. Chỉ trong một thời gian ngắn mà xảy ra dồn dập bao biến cố mang tính dấu mốc lịch sử , mà điển hình là sự trổi dậy của phong trào Tây Sơn, chỉ một lần ra Bắc đã quét sạch một chế độ đã tồn tại suốt hơn hai trăm năm ; khiến mọi định chế, quy ước của thượng tầng kiến trúc phong kiến rung rinh tận cội rễ; nên sự hoang mang của sĩ phu Bắc Hà là điều dễ hiểu.
Một số từ chối cộng tác với triều Tây Sơn, chấp nhận ở ẩn để giữ tròn khí tiết, giữ vẹn tấm lòng trung quân ái quốc với triều Lê ; bởi vì phần nhiều đã từng hưởng lộc, chịu ơn mưa móc của vương triều cũ trải qua nhiều đời.
Một số ra cộng tác với triều đại mới, hy vọng lập công, tạo sự nghiệp để đời ; vì đã sớm thấy sự mục ruỗng, thối nát vô phương cứu chữa của thời Lê mạt.
Một số ra cộng tác với Tây Sơn vì vốn đã bị thất sũng hoặc mang tội với triều trước, hoặc chịu ảnh hưởng từ tài nhìn người tinh đời của Nguyễn Huệ.
Nhưng số lớn vẫn là giữ thái độ thù địch, coi Tây Sơn như đạo quân xâm lược, hãy nghe những lời đối đáp của Ngô Thì Nhậm với Ngô Văn Sở, khi khuyên vị tướng này nên lui quân về Tam Điệp để bảo toàn lực lượng :
“…Xưa kia, nước ta bị phụ thuộc vào Trung Quốc, quân Minh buông tuồng làm điều tàn bạo. Người cả nước ai cũng muốn đuổi chúng đi. Cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần hưởng ứng, hào kiệt cả nước kéo đến như mây tụ.Mỗi lúc đánh nhau với giặc, người trong nước chỉ lo quân mình bất lợi. Mỗi khi có tin thắng trận, ai nấy đều hết sức vui mừng. Lòng người như thế, nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục, thì người ta đều dấu kín cho, khiến cho giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc đều bởi cớ ấy. Ngày nay, những người bề tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng có, nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghểnh cổ mà trông. Sĩ dân cả nước, giành nhau mà đón chúng. Quân ta( Tây Sơn –KH) mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số quân nhiều hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng…Quân ta có ai được sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt giết. Số người Bắc Hà thuộc vào số quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là trốn liền…”. [17]
Khi thua trận Đầu Mâu - Nhật Lệ , vua Quang Toản rút lui về Thăng Long nhưng sức đã cùng, lực đã kiệt , lại không nhận được sự ủng hộ của người dân Bắc Hà nên lâm vào cảnh không chốn nương thân :
“ …Ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Quang Toản tự liệu thế không chống được, cùng em là Quang Thùy, Quang Thiệu và bọn bầy tôi sang qua sông Nhị Hà chạy lên miền Bắc, chạy đến Xương Giang , đêm ngũ trọ lại, dân thôn mưu bắt. Quang Thùy tự thắt cổ chết, Toản bị dân huyện Phượng Nhãn bắt được, đóng cũi đưa đến Bắc Thành”. [18]
Khi vua Gia Long đánh bại Tây Sơn, thống nhất đất nước năm 1802 [19], ngài chọn Huế làm kinh đô, một lần nữa người dân lại một phen bỡ ngỡ vì Bắc Hà thay đổi chủ mới, Thăng Long mất vai trò là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước; bị đổi tên là Bắc Thành, chỉ là một đơn vị hành chánh cấp vùng, giống như Gia Định thành trong Nam. Kinh đô mới ở mãi trong Thuận Hoá, quan dân Bắc Hà khi có việc bẩm báo phải lặn lội đi xa hàng ngàn dặm. Kể từ năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ định đô và đặt lại tên, Thăng Long đã trải qua 792 năm là kinh đô của các vương triều Lý, Trần, Hồ, ( Hậu ) Lê , Mạc [20]. Từ vai trò đầu tàu cả nước, thật khó khăn để chấp nhận sự thật nay chỉ là một phiên trấn ! Tấm lòng luyến nhớ vua Lê, mặc cảm phiên thần , lòng tự hào bị thương tổn của sĩ phu xứ ngàn năm văn vật còn kéo dài một khoảng thời gian rất lâu [21].
Trong văn học, bài thơ “ Qua Đèo Ngang” nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan đã nói lên tâm trạng u uất, hoài cổ, nhớ thương nước cũ đã mất của các cựu thần triều Lê đó. Bàng bạc trong thơ là một tâm trạng bẽ bàng và phôi pha. Một tuyệt tác khác là bài “ Thăng Long hoài cổ ”, đọc xong không ai trong chúng ta là không ngậm ngùi thương xót cho thân phận con người trước cảnh bể dâu của cuộc đời :


QUA ĐÈO NGANG

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại : trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.


THĂNG LONG HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.


CHÙA TRẤN BẮC

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá ?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu


CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn ?



Đèo Ngang : Ranh giới giữa Quảng Bình và Hà Tĩnh

Trường hợp điển hình khác là cuộc đời của thi hào Nguyễn Du. Vốn xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc, cha anh đều là trọng thần của đương triều, nhận được nhiều sủng ái của chúa Trịnh, khi Tây Sơn chiếm Bắc Hà, ông tìm cách trốn vào Nam theo chúa Nguyễn nhưng thất bại, bị Tây Sơn giam lỏng một thời gian ở Bắc Thành. Sau này khi miễn cưỡng ra cộng tác với nhà Nguyễn, dù được vua Gia Long tín nhiệm nhưng ông vẫn giữ đúng thân phận một người được lưu dụng, mọi việc cốt sao càng ít nhắc tới càng tốt, khi dự việc triều chính thì giữ thái độ thụ động đến nỗi có lần vua Gia Long phải lên tiếng quở trách. Tấm lòng hoài Lê, nhớ thương cố quốc theo ông suốt đời, cho tới khi nhắm mắt ( 1820 ).Truyện Kiều là một tiếng thở dài chua xót cho thân phận; cũng như tâm trạng bế tắc của ca nương , nhân vật chánh trong bài hành “ Long Thành cầm giả ca ” nói lên nổi lòng của một nhân tài, phải chịu mai một vì sa cơ lỡ vận…


Than ôi ! Mọi việc ở đời như dòng nước trôi đi, việc sau lấp lên việc trước như những con sóng, đời người là hữu hạn mà sóng trường giang kia là vô hạn. Chép lại việc cũ cũng là một cách tự răn mình, đạo làm người mãi đến khi nhắm mắt xuôi tay, ai dám bảo là mình đã ( học ) đạt.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
KIẾN HÀO
( Tháng 10 – 2010 )


Tài liệu tham khảo :

Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hoá, 2006
Hoàng Lê nhất thống chí, Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, NXB Văn học, 2006 .
Việt Sử giai thoại, Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo dục 2002
Kể chuyện lịch sử nước nhà, Ngô văn Phú, NXB Trẻ, 2009
Hỏi đáp lịch sử Việt Nam , Trần Nam Tiến chủ biên, NXB Trẻ 2008
Các Ngôi sao Tây Sơn, NXB Văn Nghệ TP HCM, 2001
Thi ca Việt Nam chọn lọc , NXB Đồng Nai, 2009
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia : Trịnh Tông, Lê Chiêu Thống


Chú thích :


[1] Mười hai đời chúa Trịnh gồm : Trịnh Kiểm ( 1545-1569), Trịnh Tùng ( 1570-1623), Trịnh Tráng ( 1623-1657), Trịnh Tạc ( 1657-1682), Trịnh Căn ( 1682-1709), Trịnh Cương ( 1709-1729), Trịnh Giang (1729-1740), Trịnh Doanh ( 1740-1767), Trịnh Sâm ( 1767-1782), Trịnh Cán ( 1782 ), Trịnh Tông ( 1782- 1786 ), Trịnh Bồng ( 1786 ) .
[2] Hỏi đáp lịch sử Việt Nam , NXB Trẻ, trang 213-220.
[3] Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 62
[4] Một cấp bậc vợ vua thấp hơn hậu , phi, tần nhưng cao hơn mỹ nhân.
[5] Thực ra vai trò của hoạn quan trong hậu cung rất quan trọng, các cung phi muốn được biết tin tức đều phải mua chuộc họ. Trường hợp này có khi cũng vậy, nghĩa là Khê Trung hầu có thể đã nhận “ bồi dưỡng ” rồi nên cố tình tráo người !
[6] Năm 1740, Trịnh Doanh ( cha Trịnh Sâm ) làm binh biến, cướp ngôi chúa của anh là Trịnh Giang. Như vậy Trịnh Sâm và Trịnh Bồng là anh em chú bác.
[7] Năm 980, lợi dụng vua Đinh còn nhỏ tuổi , Lê Hoàn thông dâm với Thái hậu Dương Vân Nga và làm binh biến soán ngôi, lập ra triều ( Tiền ) Lê. Dương Vân Nga được lập làm Hoàng hậu , Đinh Toàn bị phế làm Vệ Vương, sau đó bị Lê Hoàn giết đi.
[8] Hoàng Lê nhất thống chí , sđd, trang 86.
[9] Anh cùng cha khác mẹ với thi hào Nguyễn Du.
[10] Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 91-93.
[11] Cha và anh bị hôn quân nước Sở giết chết, Ngũ Tử Tư ( Ngũ Viên ) trốn sang Ngô, giúp vua nước Ngô dựng nên nghiệp bá rồi đem quân về trả thù, đánh tan quân Sở.
[12] Có sách tính là 248 năm, từ 1539 là năm Trịnh Kiểm làm Tả tướng cho Nguyễn Kim ( phò vua Lê Trang Tông ) đến Trịnh Bồng năm 1786. Thực ra chỉ sau khi Nguyễn Kim mất năm 1545, họ Trịnh mới bước lên vũ đài chính trị.
[13] Vua ở ngôi 46 năm ( 1740 – 1786 ), nhưng mọi việc đều phó thác cho chúa Trịnh. Bị Trịnh Sâm đè nén đủ đường nhưng nhà vua vẫn vui đùa như thường. Những người gần gũi thấy vậy đều can ngăn, nhà vua đáp “ Nhờ ta vô ưu như thế mới tránh khỏi sự ngờ vực của nhà chúa. Vui chơi như thế này cũng là một cách tránh tai vạ đó thôi”. Khi Nguyễn Huệ diệt họ Trịnh , trao quyền nhất thống nước nhà thì vua lại lấy làm lo lắng, miễn cưỡng chứ không vui mừng chút nào.Lúc hấp hối, nhà vua còn bảo với Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ ( Chiêu Thống ) : “…Ta chỉ sớm tối là được trút hết gánh nặng, cái lo sẽ dồn cả vào thân mày, liệu mà nghĩ tới điều đó ”. Thật là hèn hạ bạc nhược ; chẳng trách sau này Lê Chiêu Thống noi theo gương, chịu tiếng xấu ngàn đời.
[14] Xem chú thích trên.
[15] Ngô Thời Nhiệm bị Trịnh Tông truy bắt khi lên ngôi chúa vì tội tố cáo chúa mưu phản để lập công năm 1780. Nhiệm trốn về quê nương náu, khi Tây Sơn bố cáo chiêu an thì Nhiệm là người ra trình diện chính quyền mới sớm nhất. Do đó được Nguyễn Huệ trọng dụng, cho làm Tả thị Lang bộ Lại, tước Tình Phái hầu. Phan Huy Ích là tù binh của Nguyễn Hữu Chỉnh, khi Chỉnh bị diệt thì Ích được Vũ Văn Nhậm trả tự do nhưng kể như bị thất nghiệp. Nguyễn Huệ phong Ích làm Tả Thị Lang bộ Hộ tước Thụy Nham Hầu , được đưa về Phú Xuân coi việc giấy tờ. Cả hai đều bị ( Chiêu Thống ) đục bia ( 1788), Nguyễn ( Gia Long ) nọc ra đánh đòn ( 1802 ) ở Văn Miếu vì tội theo giặc . Trong thời gian an trí ở quê cho đến khi mất (1822), Phan Huy Ích có công hoàn chỉnh bản dịch Chinh Phụ Ngâm nổi tiếng trong văn học ( tác giả Đặng Trần Côn ), mà người diễn Nôm đầu tiên là Đoàn Thị Điểm. Tưởng cũng nên biết thêm : Phan Huy Ích vừa là học trò, vừa là con rể của Ngô Thì Sĩ; còn Nguyễn Thế Lịch là bố vợ của Phan Huy Chú, con Phan Huy Ích.
[16] Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 175.
[17] Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 336.
[18] Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hóa , quyển 30 : Ngụy Tây, trang 608
[19] Từ khi vào Thuận Hóa ( năm 1558 ) các chúa Nguyễn đều xưng là phiên thần triều Lê , trên giấy tờ vẫn ghi niên hiệu của các vua Lê, mãi đến năm 1802 này mới chấm dứt.
[20] Cũng có ý kiến khác lấy mốc năm 1788 là năm vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, chọn Nghệ An làm kinh đô; như vậy kinh đô Thăng Long đã kéo dài được 768 năm.
[21] Về tâm trạng vừa tự ti, vừa tự tôn đó của giới sĩ phu miền Bắc, có lần vua Gia Long đã nhận xét “ …xứ Bắc Hà dân tình kiêu bạc…”. Năm 1854, Cao Bá Quát nhận làm quân sư cho Lê Duy Cự nổi lên chống lại nhà Nguyễn, lời hiệu triệu nhấn mạnh mục đích là lập lại vương triều Lê để mong nhận được sự đồng tình của đông đảo người dân .